Kinh nghiệm cho biết, thời gian hữu hiệu nhất
để thả toán xâm nhập vào lúc trời sắp tối, đủ th́ giờ cho toán lẩn
vào bóng tối và trực thăng được bảo vệ bởi bầu trời đen.
Tuy vậy, địch quân vẫn khám phá ra phương pháp thả toán của ta và t́m cách đối
phó. Do đó phải đánh lừa địch về điểm thả quân, trực thăng
sẽ đáp xuống ba chỗ hay hơn nữa trước khi thực sự thả toán.
Điều này làm cho địch phân vân không biết đâu là điểm thả quân một
cách chính xác. Một phương pháp khác là đoàn trực thăng ba chiếc bay thấp, nối
đuôi nhau, chiếc bay đầu bất ngờ đáp xuống thả toán biệt kích trong
chớp nhoáng rồi bốc lên nhanh nối vào đuôi hai chiếc kia làm thành hợp đoàn
ba chiếc trở lại.
Trong trường hợp thả toán bằng đường
bộ, các toán “Chạy đường ṃn” (Roadrunner), viễn thám xâm nhập vùng địch
dễ dàng lúc trời tối hoặc ngay lúc ban ngày, trong trường hợp căn cứ vẫn
thường tung các toán ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một phương hướng
nhất định. Trong trường hợp khác, toán viễn thám đi xen vào với một
đơn vị lớn. Khi thấy an toàn, toán biệt kích lặng lẽ di chuyển đến
vùng hoạt động đă được trao phó nhiệm vụ từ trước. Tất
cả mọi sự di chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được
soạn thảo cẩn thận. Sự sống c̣n của một toán viễn thám nhỏ tùy
thuộc vào mỗi cá nhân trong toán. Sự hiểu biết về nhiệm vụ của từng
người, đề cao cảnh giác, theo đúng thời khóa biểu lúc di chuyển. Trong
kế hoạch hành quân đôi khi có dặn ḍ thêm trường hợp toán phải phân tán tạm
thời trước áp lực của địch, thời gian, vị trí của điểm
hẹn, tập-họp. Bí mật là đặc tính căn bản trong vấn đề di chuyển
của các đơn vị hành quân ngoại lệ. Mặc dầu địch cũng đề
pḥng về sự hiện diện của biệt kích quân, điều quan trọng là địch
vẫn không biết rơ vị trí chính xác của toán. Mọi di chuyển phải im lặng, bàn
tay và thủ hiệu được xử dụng để truyền tin và ban lệnh thay
cho lời nói, ít xử dụng máy truyền tin và để độ âm thanh tối thiểu,
súng đạn đồ trang bị gọn gàng không gây tiếng động khi chạm vào cây
lá hoặc đá và tuyệt đối giữ im lặng khi di chuyển.
Về vấn đề tái tiếp tế cũng được
đặt ra, các quân nhân trong chiến tranh ngoại lệ không thể mang theo đồ ăn,
đạn dược và vật dụng quá năm ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế
hoạch hành quân cũng nói đến vấn đề tái tiếp tế trong ṿng từ ba
đến năm ngày tại một địa điểm định trước. Vấn
đề đặt ra là sự an toàn, không để lộ vị trí của toán. Thả dù
tiếp tế ban ngày sẽ làm cho địch báo động, đề pḥng. Thả ban đêm
trong vùng rừng núi, cơ hội thâu hồi kiện hàng rất ít.
Triệt xuất theo đúng hạn kỳ hoặc trong trường
hợp khẩn cấp phải đem về một người bị tai nạn bất tử
hay bị thương, cả toán cũng phải tính trước. Lực Lượng Đặc
biệt rất thành công từ lúc đầu cho đến giữa năm 1967, hầu hết
các toán đều thi hành nhiệm vụ đúng theo hoạch định, hết thời gian,
ra điểm hẹn để trực thăng bốc đem về. Những toán “Chạy
đường ṃn”, viễn thám rất dễ bị địch tiêu diệt do đó nhân
viên trong bộ chỉ huy có nhiệm vụ theo dơi hoạt động của toán biệt kích,
phải chuẩn bị sẵn sàng vấn đề triệt xuất toán trong vùng địch
ngay tức khắc khi nhận được báo cáo “khẩn”.
VII. CÁC CĂN CỨ
/ BỘ CHỈ HUY LỰC LƯỢNG ĐẶC-BIỆT.
B-50 LLĐB (HÀNH QUÂN OMEGA).
Dựa trên sự thành công của các cuộc hành quân Delta và
nhu cầu chiến trường, bộ chỉ huy B-50 Lực Lượng Đặc Biệt
tổ chức chương tŕnh hành quân Omega vào tháng Bẩy năm 1966 và đặt tại Nha
Trang. Hành quân Omega trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân viễn thám, thâu
thập tin tức t́nh báo tác chiến, tuy nhiên không như Delta trực thuộc bộ Tổng
Tham Mưu và bộ tư lệnh Quân Viện Hoa Kỳ, hành quân Omega được thực
hiện trên vùng I chiến thuật kể từ ngày 1 tháng Chín năm 1967.
B-50 LLĐB tuyển mộ các sắc tộc thuộc bộ
lạc người Jah, Rhade và Sedang, người gốc Chàm và Tầu. Ban đầu gồm
có tám toán viễn thám và bốn toán “Chạy đường ṃn”, sau đó tăng lên
mười sáu toán viễn thám và tám toán “Chạy đường ṃn”. Trong năm 1968,
các toán “Chạy đường ṃn” thuyên chuyển qua B-57 LLĐB, tiếp tục các
hoạt động tuần tiễu lấy tin tức. Hành quân Omega có ba đại đội
xung kích làm thành phần tiếp ứng, trừ bị. Bộ chỉ huy B-50 chấm dứt
nhiệm vụ tại Việt Nam vào tháng Sáu năm 1972.
B-51 LLĐB TRUNG TÂM HUẤN
LUYỆN ĐỘNG BA TH̀N.
Động Ba Th́n là trung tâm huấn luyện của QLVNCH.
Đến năm 1964, bộ chỉ huy B-51 LLĐB đến cố vấn cho chương
tŕnh huấn luyện tại trung tâm. Nhiều chương tŕnh huấn luyện được
cải tiến theo thời gian, khóa căn bản LLĐB Việt Nam, khóa học nhẩy dù
của LLĐB, huấn luyện cho DSCĐ, vơ Tae Kown Do Đại Hàn, truyền tin và các khóa
huấn luyện khác.
Năm 1968, B-51 LLĐB dời các khóa huấn luyện đi
An Khê, nhưng đến tháng Mười 1969 quay trở lại Động Ba Th́n và căn
cứ được gọi là trung tâm huấn luyện quốc gia. Sau đó B-51 được
bộ chỉ huy Quân Viện giao cho nhiệm vụ huấn luyện quân đội Campuchia.
Bộ chỉ huy B-50 LLĐB rời Việt Nam tháng Ba năm 1971.
B-52 LLĐB HÀNH QUÂN DELTA.
Vào tháng Năm 1964, cơ quan t́nh báo CIA khởi đầu chương
tŕnh Leaping Lena dùng LLĐB/HK huấn luyện cho LLĐB/VN và lực lượng DSCĐ trong
những nhiệm vụ thám sát thâu thập tin tức. Khi chương tŕnh phát triển, nhu
cầu về nhân lực của LLĐB/HK tăng lên cho đến tháng Sáu năm 1965, khi liên
đoàn 5 LLĐB/HK được giao phó thêm trách nhiệm và bộ chỉ huy B-52 được
thành lập để chỉ huy và theo dơi các hoạt động viễn thám. Chương tŕnh
này được gọi là hành quân Delta, mỗi toán thường gồm có hai quân nhân LLĐB/HK
và bốn LLĐB/VN, ngoại trừ các toán “Chạy đường ṃn” có từ bốn
đến sáu quân nhân Việt, thường mặc quần áo, trang bị như quân cộng
sản hoạt động trong vùng địch kiểm soát.
Bộ chỉ huy B-52 vẫn thường thay đổi lề
lối làm việc, tổ chức tùy theo nhu cầu đ̣i hỏi, mới đầu chỉ
có mười hai toán viễn thám LLĐB Việt Mỹ và mười hai toán DSCĐ “Chạy
đường ṃn”, một đại đội pḥng thủ người Nùng và tiểu
đoàn 81 Biệt Cách Dù với năm đại đội làm đơn vị xung kích tiếp
ứng. Những nhiệm vụ được trao phó cho hành quân Delta gồm có: Xác định
vị trí đơn vị địch, thâu thập tin tức t́nh báo chiến lược, thẩm
định sự tàn phá cho các trận thả bom, lùng và diệt địch, đột kích
và phá hoại. Bộ chỉ huy B-52 rất nổi tiếng trong suốt trận chiến.
Đến năm 1966, chương tŕnh Delta làm việc trực
tiếp với bộ chỉ huy Quân Viện (MACV), thi hành những sứ mạng trên khắp
Việt Nam. Cũng trong năm này hai chương tŕnh khác, Sigma và Omega được phát triển
với nhiệm vụ tương tự, hoạt động trên lănh thổ vùng I và vùng II
chiến thuật. Bộ chỉ huy B-52 c̣n được MACV giao cho nhiệm vụ huấn
luyện lính Hoa Kỳ về kỹ thuật viễn thám. B-52 đồn trú tại Nha Trang cho
đến tháng Sáu năm 1970 khi chương tŕnh Delta chấm dứt.
B-53 NHÓM CỐ VẤN
HÀNH QUÂN ĐẶC BIỆT.
Bộ chỉ huy B-53 được chính thức thành lập
tại Việt Nam vào tháng Hai năm 1964. Lúc đó đặt trong căn cứ huấn luyện
LLĐB Việt Nam ở Long Thành. Trong thời gian tại đó, nhiều sứ mạng của
đơn vị được đề cao và bảo trợ bởi đơn vị Nghiên
Cứu Quan Sát (SOG) thuộc bộ chỉ huy Quân Viện (MACV-SOG).
Khi liên đoàn 5 LLĐB/HK rời Việt Nam năm 1971, vấn
đề huấn luyện quân Việt Nam về chiến tranh ngoại lệ vẫn cần
thiết. B-53 LLĐB trở thành hạt nhân cho chương tŕnh này và vào tháng Giêng năm 1971
được gọi là nhóm Cố Vấn Sứ Mạng Đặc Biệt (SMAG). Nhóm mới
thành lập này, lúc đầu di chuyển đến trường huấn luyện viễn
thám (MACV RECONDO), sau đó lấy bộ chỉ huy liên đoàn 5 LLĐB làm bộ chỉ huy vào
tháng Ba.
Nhiêm vụ của nhóm cố vấn này là huấn luyện,
cố vấn và phụ giúp cho đơn vị Dịch Vụ Sứ Mạng Đặc Biệt
(Special Mission Service - SMS) của Việt-Nam, đơn vị này là tiền thân của LLĐB/VN
trong chiến tranh ngoại lệ. Vào tháng Chín năm 1971, đơn vị SMS được
lệnh làm việc với đơn vị 1, Sở Liên Lạc QLVNCH đóng tại Đà Nẵng,
hậu thân của bộ chỉ huy Bắc (Sở Bắc) của nhóm Nghiên Cứu, Quan Sát MACV
(MACV-SOG). Cho đến tháng Ba năm 1972, trong ṿng mười một tháng, nhóm Cố Vấn
Sứ Mạng Đặc Biệt (SMAG) hoàn tất việc huấn luyện cho 27 toán hoạt
động và 15 toán viễn thám. Nhóm cố vấn này chấm dứt nhiệm vụ vào tháng
Tư năm 1972 và bộ chỉ huy B-53 rời Việt Nam.
B-55 TOÁN LIÊN LẠC TẠI
SAIGON.
Với sự hiện diện của LLĐB/HK từ năm
1962, nhu cầu phải có một ban liên lạc gần bộ chỉ huy Quân Viện Hoa Kỳ
tại Saigon để dễ dàng trong việc soạn thảo, huấn luyện và chuyển
những tin tức t́nh báo. Đó là nhiệm vụ của toán Liên Lạc LLĐB B-55, thường
được gọi là Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật (TOC), nhưng trên thực tế,
cơ quan này làm nhiệm vụ giải đoán tin t́nh báo. Được huấn luyện,
hướng dẫn bởi ban Cố Vấn Kỹ Thuật hỗn hợp (JTAD) và phối
hợp với ban Nghiên Cứu hỗn hợp (CDS). Sau khi sở Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG)
hoạt động, B-55 làm nhiệm vụ phối hợp giữa hai tổ chức LLĐB
tại Việt-Nam.
Là cơ quan liên lạc tại Saigon, B-55 phải lo thủ
tục giấy tờ cho các quân nhân LLĐB/HK tại Việt Nam. Tham dự các buổi họp,
thuyết tŕnh giữa các bộ chỉ huy, tuyển mộ lính đánh thuê. Vào ngày 23 tháng Năm
1968, B-55 đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy Lực Lượng 5 Xung Kích Lưu
Động (Mike Force). B-55 giữ trách nhiệm này cho đến ngày lên đường về
Hoa Kỳ vào năm 1970.
B-56 HÀNH QUÂN SIGMA.
Khi mức độ chiến trường leo thang, nhu cầu
t́nh báo tác chiến đ̣i hỏi qúa nhiều, đặt nặng vấn đề cho chương
tŕnh Delta. Liên đoàn 5 LLĐB/HK thành lập bộ chỉ huy B-56 vào tháng Tám 1966 để phụ
trách chương tŕnh hành quân Sigma đặt căn cứ trong trại Hồ Ngọc Tảo.
Hành quân Sigma được tổ chức tương tự như những chương tŕnh
thám sát khác, gồm có tám toán viễn thám và ba đại đội xung kích tiếp ứng. B-56
ít tuyển mộ người Thượng, dùng lính đánh thuê người Nùng hoặc Miên.
Những toán “Chạy đường ṃn” của chương tŕnh Sigma được
chuyển qua bộ chỉ huy B-57 vào năm 1967.
Sigma tham gia trong nhiều cuộc hành quân Blackjack trong vùng trách
nhiệm hoạt động. Thường làm nhiệm vụ viễn thám cho các cuộc hành
quân, đôi khi xử dụng lực lượng cơ hữu của Sigma phối hợp với
lực lượng tiếp ứng Mike Force.
Đến tháng Mười Một 1967, vấn đề chỉ
huy hành quân của B-56 được đặt dưới sự kiểm soát của MACV và
thuộc quyền xử dụng của viên tư lệnh Quân Đoàn II. Trong năm 1969, B-56
dời đi Ban Mê Thuột, cuối cùng trở lại Hoa Kỳ vào tháng Năm 1971.
B-57 CHƯƠNG TR̀NH
GAMMA.
Từ khi có nhiều đơn vị trinh sát, viễn thám
hoạt động trên chiến trường Việt Nam, nhu cầu giải đoán những
nguồn tin t́nh báo thâu thập được và cung cấp tin tức, hướng dẫn
về các mục tiêu trở nên hiển nhiên. Vào tháng Sáu 1967, bộ chỉ huy B-57 chương
tŕnh Gamma được thành lập. Bộ chỉ huy đặt tại Saigon, B-57 có nhân viên
làm việc rải rác khắp các vùng chiến thuật II, III, và IV. B-57 đặc biệt tuyển
mộ, điều hành những người lấy tin tức (điệp viên) hoạt động
trong vùng địch. Để trợ giúp nhân viên t́nh báo của LLĐB, lục quân Hoa Kỳ
biệt phái một số chuyên viên t́nh báo gọi là nhóm Cố Vấn Kỹ Thuật Hỗn
Hợp. Tổ chức này đă hoạt động hơn một năm và đă thiết lập
một hệ thống gián điệp nằm vùng, có sẵn những nguồn tin t́nh báo. B-57
c̣n giữ sự liên hệ mật thiết với các cơ quan khác của chính quyền nhằm
mục đích trao đổi, thẩm định tin tức và phối hợp các hoạt động
t́nh báo. Chương tŕnh Gamma chấm dứt vào tháng Ba năm 1970, khi B-57 rời Việt-Nam.
TRƯỜNG VIỄN
THÁM (RECONDO SCHOOL).
Khi chương tŕnh hành quân Delta tăng thêm quân số, nhu cầu
huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu thám sát được đặt ra.
Vào tháng Năm 1964, chương tŕnh Delta bắt đầu huấn luyện trong phạm vi
căn cứ tại Nha Trang. Một thời gian ngắn sau, các đơn vị bắt đầu
nghe đến khóa huấn luyện viễn thám và được phép gửi quân nhân về
học. Khi cơ quan MACV được báo cáo kết qủa tốt đẹp của việc
huấn luyện, ra chỉ thị cho liên-đoàn 5 LLĐB đảm trách về khóa học.
Ngày 15 tháng Chín năm 1966 là ngày chính thức khai giảng trường
huấn luyện Viễn Thám MACV với ban huấn luyện thuộc bộ chỉ huy B-52.
Khóa học dài ba tuần về kỹ thuật tác chiến, tuần tiễu, trinh sát. Khóa sinh
phải đầy đủ sức khỏe, đă ở Việt Nam tối thiểu một
tháng và c̣n sáu tháng phục vụ. Ưu tiên dành cho những quân nhân đến từ các toán A
LLĐB, các đại đội Biệt Động Quân, các toán viễn thám và các đơn
vị trinh sát khác.
Sau này trường huấn luyện thêm khóa hướng dẫn
về chiến đấu cho các quân nhân LLĐB/HK mới đến Việt Nam. Trường
chính thức đóng cửa vào tháng Mười Một năm 1970.
LỰC-LƯỢNG
DU KÍCH LƯU ĐỘNG.
Ư tưởng về Lực Lượng Du Kích Lưu Động
(MGF) dựa trên quan niệm đặt những đơn vị sâu trong vùng địch kiểm
soát trong một khoảng thời gian, nhằm khuấy phá căn cứ và các hoạt động
của địch. Bắt đầu từ năm 1966, đơn vị Du Kích Lưu Động
gồm có một toán A LLĐB và một đại đội 150 người DSCĐ hoặc
Mike Force, đă được huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu lâu dài
và một trung đội trinh sát 34 người. Dưới danh hiệu Blackjack, những đơn
vị này được đưa sâu vào vùng địch và nhận tiếp tế bằng
phương tiên thả dù. Hành quân Blackjack 21 xử dụng đơn vị đặc nhiệm
777 gồm 15 quân nhân LLĐB/HK và 249 quân nhân Thượng. Blackjack 22 gồm có một đại
đội xung kích Mike Force và một đại đội Du Kích Lưu Động. Blackjack
33 gồm đại đội 3 xung kích Mike Force và đại đội du kích 957.
Có nhiều cuộc hành quân Blackjack được tổ chức
trong năm sau, cuối cùng các đại đội Du Kích kết hợp với các đại
đội xung kích Mike Force thành đơn vị cấp tiểu đoàn Xung Kích Lưu Động.
LỰC LƯỢNG
XUNG KÍCH LƯU ĐỘNG (Mobile Strike Force).
Mặc dầu các trại LLĐB đều có lực lượng
xung kích cơ hữu để trả đủa tức thời, tuy nhiên vẫn phải có
thêm lực lượng tiếp ứng khác đặt dưới quyền điều động
trực tiếp của LLĐB trong trường hợp khẩn cấp, giải vây trại
LLĐB trước áp lực nặng nề của địch. Một quyết định
được tiến hành vào tháng Sáu năm 1966, thành lập một đơn vị trừ
bị cho mỗi quân khu và đặt trực thuộc bộ chỉ huy LLĐB quân khu (Bộ
chỉ huy C). Các tiểu đoàn tiếp ứng được huấn luyện và bắt đầu
hoạt động từ mùa thu 1966. Mới đầu gọi là Lực Lượng Trừ
Bị Lưu Động, sau trở thành “Mike Force” (Mobile Reaction Forces - MRF). Năm 1967,
tên gọi chính thức cho các đơn vị trên là Lực Lượng Xung Kích Lưu Động
(Mobile Strike Force - MSF), mỗi quân khu đều có một đơn vị riêng và đơnvị
thứ năm được thành lập xử dụng cho bốn quân khu.
Mặc dầu dự định là một đơn vị
trừ bị đa dụng, đơn vị xung kích trước tiên được xử
dụng như lực lượng bảo vệ căn cứ. Mỗi đại đội
có 184 người, được tổ chức như đơn vị chính quy trang bị
súng cộng đồng. Những đại đội này được gom lại thành tiểu
đoàn 552 người. Tiểu đoàn xung kích thường có thêm đại đội trinh
sát 135 người và bộ chỉ huy, đại đội công vụ 227 người. Nhiệm
vụ chính là giải vây cho các trại LLĐB, trong năm đầu, lực lượng xung
kích phối hợp với lực lượng du kích trong nhiều cuộc hành quân. Về sau
thường được xử dụng tiếp ứng cho toán Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV
- SOG) khi khẩn cấp. Đến năm 1967, lực lượng du kích sát nhập vào lực
lượng xung kích và hoạt động cho đến khi LLĐB/HK bàn giao cho QLVNCH.
Chiến đoàn 1 Xung Kích trực thuộc B-16 LLĐB, thành
lập vào tháng Hai 1966 và đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy
C1/LLĐB tại Đà Nẵng. Trong 5 năm hoạt động trên chiến trường
vùng I, chiến-đoàn 1 Xung Kích gồm có hai tiểu đoàn, một đại đội trinh
sát, bộ chỉ huy và đại đội công vụ. Chiến đoàn 2 Xung Kích trực thuộc
B-20 LLĐB ở Pleiku, B-23 ở Ban Mê Thuột và B-24 trên Kontum. Tất cả đặt dưới
quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C2/LLĐB trách nhiệm trên lănh thổ quân khu II.
Trong 5 năm hoạt động, chiến đoàn 2 Xung Kích gồm có năm tiểu đoàn,
một đại đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại đội công vụ.
Chiến đoàn 3 Xung Kích thành lập vào tháng Mười Một
năm 1967 và đặt dưới quyền điều động của bộ chỉ huy
C3/LLĐB, chịu trách nhiệm trên lănh thổ quân-khu III. Bộ chỉ huy B-36 LLĐB chỉ
huy trực tiếp chiến đoàn 3 Xung Kích gồm có ba tiểu đoàn, đại đội
trinh sát, bộ chỉ huy cùng đại đội công vụ. Vào cuối năm 1970, chiến
đoàn dược chuyển giao cho QLVNCH, B-36 trở về Hoa-Kỳ tháng Hai năm 1971.
Chiến đoàn 4 Xung Kích trực thuộc B-40, bộ chỉ
huy C4/LLĐB gồm có ba tiểu đoàn, đại đội trinh sát, đại đội
xuồng bay (Air boat) 184 người, bộ chỉ huy cùng đại đội công vụ.
Mới đầu chịu trách nhiệm trên quân khu IV đến tháng Tám năm 1969, đặt
dưới quyền điều động của Biệt Khu 44. Bắt đầu từ
tháng Năm 1970, chiến đoàn được bàn giao cho QLVNCH, B-40/LLĐB/HK về nước
tháng Mười Hai năm 1970.
VIII. ĐOÀN NGHIÊN CỨU,
QUAN SÁT (MACV - SOG).
Liên đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát thuộc bộ chỉ huy Quân
Viện (MACV - SOG) là một đơn vị tuyệt đối cho các hành quân đặc biệt.
Ngay từ lúc khởi đầu, danh hiệu Nghiên Cứu, Quan Sát (đôi khi gọi là Hành Quân
Đặc Biệt) được dùng làm tên che mắt (Code name - Danh hiệu) cho các cuộc
hành quân tối mật về t́nh báo.
Cơ quan Trung Ương T́nh Báo CIA đă từ lâu yểm
trợ cho các dịch vụ bí mật của chính quyền VNCH cho đến năm 1963, lúc
đó cơ quan trở thành bộ chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt Việt
Nam và thực hiện những cuộc hành quân đặc biệt. Cường độ chiến
tranh gia tăng, nhu cầu cho các hoạt động tăng lên. LLĐB/VN phát triển trở
thành Sở Khai Thác Đặc Biệt. Vào ngày 16 tháng Giêng năm 1964, bộ chỉ huy mới
Liên Đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát được thành lập trong Chợ Lớn cho các cuộc
hành quân đặc biệt. Năm 1966, bộ chỉ huy MACV-SOG dời ra Saigon, bộ phận
Bộ đóng trong phi trường Tân Sơn Nhất, bộ phận Không Yểm dời ra Nha
Trang, và bộ phận Hải Yểm đóng ngoài Đà Nẵng.
Các sứ mạng của MACV-SOG nhắm trực tiếp vào
những nơi địch kiểm soát trong miền nam Việt Nam, và vượt biên sang đất
Lào, Campuchia, Bắc Việt và nam Trung Hoa. Những nhiệm vụ đặc biệt bao gồm
việc thu thập tin tức t́nh báo chiến lược, phá hoại đường giao liên,
tiếp vận của địch, chiến tranh tâm lư, cứu tù binh và phát triển phong trào
kháng chiến chống lại chính quyền, v.v... Những nhiệm vụ thám sát của liên
đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG) được chọn lựa kỹ càng và những bản
báo cáo sau chuyến xâm nhập thường được gửi về Ngũ Giác Đài (bộ
Quốc Pḥng HK), để đánh gía và phân phối đi.
Năm 1967, MACV-SOG được tổ chức lại đơn
vị Bộ thành ba bộ chỉ huy: Bộ chỉ huy Bắc (CCN) ở Đà Nẵng, Trung
(CCC) trên Kontum và Nam (CCS) ở Ban Mê Thuột. Những bộ chỉ huy này được tổ
chức bằng cách gom lại một số căn cứ hành quân tiền phương (FOB),
mà trước đây được thiết lập để yểm trợ tiếp cận
cho những cuộc hành quân xâm nhập. Các căn cứ này đóng ở Phú Bài (Huế), Kontum,
Khe Sanh, Non Nước, Ban Mê Thuột và trại Hồ Ngọc Tảo. Bộ phận (Sở)
Bộ gồm hơn 1600 quân LLĐB/HK, chia ra hơn 70 toán thám sát và 8000 quân LLĐB Việt Nam
(Lôi Hổ).
Cách tổ chức cuả liên đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG)
cũng gần như song song với tổ chức của Lực Lượng Đặc Biệt
với các toán xâm nhập tương đương với các toán A LLĐB, căn cứ hành
quân tiền phương tương đương với bộ chỉ huy B LLĐB, các bộ
chỉ huy Bắc, Trung, Nam tương đương với các bộ chỉ huy C LLĐB.
Bộ phận (Sở) Không Yểm bao gồm phi đoàn 90
Hành Quân Đặc Biệt (SOS) của Không Lực Hoa Kỳ, đóng tại Nha Trang, cung cấp
máy bay C-130. Phi đoàn 20 (SOS) có bộ chỉ huy ở vịnh Cam Ranh, các đơn vị phụ
thuộc đóng trên Ban Mê Thuột, Đức Lập và Tiêu Atar cung cấp trực thăng
yểm trợ. Ngoài ra MACV-SOG c̣n có đơn vị trực thuộc là phi đoàn Đệ
Nhất (First Flight) đóng rải rác khắp nơi và Thái Lan.
Bộ phận Hải Yểm đóng ngoài Đà Nẵng gồm
có đơn vị biệt kích (SEALs) của Hải Quân Hoa Kỳ, các siêu tốc đỉnh
và các toán Người Nhái, phá hoại dưới nước thuộc Hải Quân Việt Nam.
MACV-SOG c̣n có một trung tâm huấn luyện và đơn vị
xâm-nhập bằng dù ở Long Thành. Đơn vị này gồm các quân nhân Việt Nam, được
thả vào vùng địch bằng phương tiện nhẩy dù.
Cơ quan MACV-SOG ngưng hoạt động kể từ
ngày 30 tháng Tư 1971 và chương tŕnh được giao cho toán Yểm Trợ Nha Kỹ Thuật
158 (STDAT). Một số quân Bộ đă chuyển qua nhóm Cố Vấn Hành Quân Đặc Biệt
từ tháng Ba năm 1971. Cuối cùng chấm dứt nhiệm vụ vào ngày 12 tháng Ba năm 1972.
Kết thúc một trong những huyền thoại trong ngành Lực Lượng Đặc Biệt.
BỘ CHỈ HUY
(CCN) SỞ BẮC.
Bộ chỉ huy Bắc được thành lập vào ngày
01 tháng Mười Một năm 1967 tại Đà Nẵng với ba bộ chỉ huy tiền
phương 1 tại Phú Bài, bộ chỉ huy tiền phương 3 tại Khe Sanh và bộ
chỉ huy tiền phương 4 tại Non Nước. Quân nhân thuộc Liên-đoàn 5 LLĐB/HK
và ban cố vấn Hải Quân.
Các hành quân vượt biên do BCH Bắc tổ chức nhắm
vào miền bắc Việt-Nam và Lào. Những cuộc hành quân trong vùng nam Lào dưới danh hiệu
Shining Brass bắt đầu từ năm 1965 nhằm phá hoại đường dây xâm nhập
người và vật liệu. Sau đó đổi tên là Prairie Fire, khi chuyển qua Nha Kỹ
Thuật cuộc hành quân lấy tên là Phù Dung.
Như tất cả các cuộc hành quân thám sát, BCH Bắc cũng
có đơn vị tiếp ứng gọi là đơn vị Cảm Tử Đặc Biệt.
Ngoài ra c̣n thiết lập những căn cứ hành quân bí mật bên Thái Lan. Tuy nhiên, nhiệm
vụ chính vẫn là trinh sát, thâu thập tin tức t́nh báo chiến lược.
BỘ CHỈ HUY (CCC)
SỞ TRUNG.
Bộ chỉ huy này đóng trên Kontum gồm quân của liên
đoàn 5 LLĐB/HK, có thời gian được xem như phần nới rộng hành quân của
LĐ 5 LLĐB. Khu vực trách nhiệm của bộ chỉ huy Trung là tam giác Lào, Miên và Việt.
Các cuộc hành quân lúc đầu lấy tên là Daniel Boone, sau đổi thành Salem House nhằm
phá hoại căn cứ, kho tiếp liệu che dấu của quân cộng sản Bắc Việt,
đặc biệt trong vùng đông bắc Campuchia. Trong Bộ chỉ huy Trung có tất cả
30 toán thám sát, mỗi toán gồm 3 quân nhân LLĐB/HK và chín quân nhân Việt Nam. Ngoài ra c̣n có bốn
đại đội khai thác, xử dụng tin tức do các toán thám sát cung cấp trong các cuộc
hành quân lùng và diệt.
BỘ CHỈ HUY (CCS)
SỞ NAM.
Bộ chỉ huy này được thành lập vào tháng Mười
Một năm 1967 đồn trú tại Ban Mê Thuột. Bộ chỉ huy này nhỏ nhất trong
các bộ chỉ huy của liên đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG). Khu vực hoạt động
chính nơi đồng bằng Cửu Long và Campuchia. Đơn vị gồm có một số
toán thám sát và bốn đại đội khai thác. Do địa thế dưới vùng đồng
bằng, các đại đội khai thác thường xử dụng xuồng bay trong các cuộc
hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của các quân nhân Hoa Kỳ trong đơn vị
này chấm dứt vào tháng Giêng năm 1973, tất cả các đơn vị Hoa Kỳ trở
về nước.
IX. ĐOẠN KẾT.
Trong chiến tranh Việt Nam, rất nhiều giai thoại
nói về binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Nhưng ít người hiểu
biết tường tận, ngay cả đến những quân nhân phục vụ trong ngành
LLĐB. Điều này không nên lấy làm lạ v́ đó là đặc tính căn bản (sống
chết) của LLĐB... “BÍ MẬT”. Nhiều đơn vị có tên nghe rất lạ:
Lôi Hổ, Thám Sát, Sở Công Tác, Liên Lạc, Biệt Kích v. v... Đối với quân đội
Hoa Kỳ, các quân nhân LLĐB được coi như những chiến sĩ can trường,
được tuyển chọn và huấn luyện đầy đủ nhất. Trong QLVNCH,
binh chủng LLĐB Việt Nam gồm những chiến sĩ can đảm, gan ĺ, đôi khi
hơi bí mật... Họ là những “Bóng ma biên giới” đối với quân cộng
sản. Binh chủng LLĐB đă đóng góp rất nhiều công lao, xương máu cho miền
Nam tự do của chúng ta, mặc dầu những chiến công, sự chiến đấu
của họ cũng thầm-lặng... bí mật.