QLVNCH là một
trong những lực lượng chủ yếu tham chiến trong Chiến Tranh Việt Nam.
Với quân số Chủ Lực Quân, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tổng cộng
ngót 1.200.000 người, QLVNCH đă chịu tổn thất gần 300.000 người tử
trận sau hơn 20 năm chiến đấu từ khi đất nước bị chia đôi.
Dù trong điều kiện, hoàn cảnh, thành tích và phẩm chất nào chăng nữa, quân lực
này cũng đă la ømột thực thể có vai tṛ quan trọng trong chiến tranh và tạo
ra những hậu quả đáng kể về chính trị, quân sư trên thế giới và
tác độïng mạnh đến xă hội, văn hóa giáo dục...ở Việt Nam. Những
yếu tố trên không thể bị bỏ quên trong bất cứ đề tài thảo luận,
nghiên cứu nào về lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử thế giới.
Tàøi
liệu này không đi sâu vào những dữ kiện đă được nhiều sách báo đưa
ra mà chỉ nhấn mạnh vào một số điểm đáng lưu ư trong tiến tŕnh h́nh
thành và chiến đấu của QLVNCH nhất là những ǵ không được nhiều người
biết đến và quan tâm.
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Muốn
hiểu rơ về nguyên nhân và nguồn gốc sự h́nh thành QLVNCH không thể không xét đến
bối cảnh lịch sử của Việt Nam từ thập niên 1920.
1. Tranh chấp
Quốc – Cộng.
Dân tộc Việt Nam rất tự hào về tinh thần bất khuất
chống ngoại xâm. Mặc dầu bị Trung hoa đô hộ với mưu đồ đồng
hóa hằng ngàn năm, nhưng Việt Nam vẫn tồn tại. Bởi vậy khi Pháp đặt
nền đô hộ lên đầu nhân dân Việt Nam
th́ phong trào kháng
chiến chống thực dân Pháp nổi lên khắp nơi, với cả hai khuynh hướng
quốc gia và cộng sản.
Cuộc tranh chấp giữa các đảng phái quốc gia và đảng Cộng Sản Việt
Nam (CSVN) đă nhen nhúm ngay từ ngày có đảng CSVN hồi cuối thập niên 1920. Nhưng
trước năm 1945, những đụng chạm này kể cả những vụ CSVN sát
hại người các đảng phái quốc gia chỉ mang tính cách lẻ tẻ không có quy
mô đáng kể.
Cuối tháng Tám năm 1945, lực lượng CSVN núp sau danh nghĩa Mặt Trận Việt
Minh (MTVM) với chiêu bài quốc gia dân tộc đơn phương cướp chính quyền
và dành độc quyền lănh đạo đất nước trái với thỏa hiệp
trước đó giữa MTVM và các đảng phái không-Cộng-Sản. Ngay sau đó, phe
CSVN thẳng tay tiêu diệt tất cả các tổ chức mà họ tin rằng sẽ là những
phần tử đối lập đáng e ngại sau này.
Trong thời gian 1945-1946, các lực lượng quân sự và quần chúng thuộc các đảng
phái không-Cộng-Sản đều tham gia chiến đấu chống Pháp cùng với các lực
lượng Việt Minh (VM) v́ họ đều nghĩ rằng phe phái nào cũng có mục
tiêu chung là chống Pháp dành độc lập, không cần phân biệt.
Lời kêu gọi "Đại Đoàn Kết" của ông Hồ Chí Minh đưa ra không lâu trước
khi phe CSVN bất ngờ tung ra chiến dịch quy mô tiêu diệt phe quốc gia gồm các cá
nhân, tổ chức đảng và lực lượng quân sự. Nhiều thanh niên yêu nước
không-Công-Sản bị sát hại hàng lọat ngay trước khi nổ ra cuộc Kháng Chiến
chống Pháp 19/12/1946.
Năm 1947, chỉ có một số ít làng mạc chống Cộng được quân đội
Pháp trang bị cho các dân quân vũ khí của Thế Chiến I để giúp họ giữ an
ninh các vùng Pháp kiểm soát. Quân đội Pháp thành lập một số các đơn vị
bán quân sự không có quy chế quân nhân nhưng được trả lương gọi là
thân binh (Partisan) người Việt Nam để đóng các đồn bót của quân đội
Pháp. Năm 1947 số người Việt chiến đấu bên cạnh lính Pháp tương
đối khá ít ỏi. Sau đó để gia tăng quân số, người Pháp tuyển một
số người Việt vào các đơn vị chính quy dưới danh nghĩa Liên Hiệp
Pháp.
Từ đầu năm 1947 sang năm 1948 và 1949, đảng CSVN mở nhiều đợt
thanh trừng qui mô hàng ngũ quân đội kháng chiến, loại bỏ những phần tư
û bị nghi ngờ là đối lập với chế độ CSVN trong đó có nhiều
người yêu nước đang phục vụ tích cực và hữu hiệu cho cuộc kháng
chiến chống Pháp. Kế đến là thường dân tham gia các đảng phái quốc
gia và các phần tử khác bị VM cho là nguy hiểm.
2. Sự Lớn
Mạnh Của Lực Lượng Chống Cộng
Trong khi nhiều người có khuynh
hướng quốc gia v́ ḷng yêu nước theo VM chống Pháp được VM tạm dung
thứ, th́ nhiều người quốc gia yêu nước khác biết ḿnh bị VM liệt
vào loại đáng nghi ngờ, trước sau cũng có thể bi thanh toán phải t́m đất
sống ở vùng kiểm soát của quân đội Pháp. Họ phải chọn vùng của
kẻ thù ít nguy hiểm hơn làm chỗ nương náu. Thực Dân Pháp tuy tàn ác, nhưng họ
c̣n có thể len lỏi t́m cách sống được trong các vùng này.
Chinh quyền quốc gia do Cựu Hoàng Bảo Đại lănh đạo ra đời sau
Hiệp Định Pháp Việt ngày 8 tháng 3 năm 1948 là chỗ dựa tạm cho những người
này mặc dù đây chưa phải là một chính quyền thực sự đôïc lập, ngưới
Pháp nắm hầu hết quyêøn lực cai trị. Chính quyền Bảo Đại chỉ có
rất ít uy tín trong dân chúng.
Sang năm 1950-1951 khi đảng CSVN ra công khai dưới danh xưng đảng Lao Động
(Worker's Party) và gia tăng thanh trừng, khủng bố th́ những người không chấp
nhận chế độ CSVN hoặc không được chế độ này chấp nhận
ào ạt rời bỏ vùng kháng chiến trở về vùng do chính quyền Bảo Đại
và quân đội Pháp kiểm soát. Số người đông đảo này làm thay đổi
hẳn bộ mặt của chính quyền Quốc Gia. Môt phe quốc gia chống cộng gồm
nhiều xu hướng và đảng phái không-Cộng-Sản ngày thêm vững mạnh.
Năm 1953, ông Hồ Chí Minh tung ra phong trào Phát Động Quần Chúng thường
được gọi là cuộc "đấu tố" hay "Cải Cách Ruộng Đất" đẫm
máu nhằm lọai trừ giai cấp địa chủ và các phần tử bị
coi là đối lập. Nhiều người bị hành hạ và hành quyết bằng những
cách giết người dă man nhất. Một làn sóng những nạn nhân hay sẽ là nạn
nhân của chế độ CSVN bỏ kháng chiến trở về vùng quốc gia đă là nhân
tố củng cố thêm cho lực lượng chống CSVN.
Lực lượng phe chống CSVN đă có vị trí rơ rệt và vũng chắc hơn chút
ít khi đất nước bị chia cắt do Hiệp Định Geneva 20/7/1954.
3. Quân Đội Quốc Gia Việt
Nam.
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (QĐQGVN) được thành lập từ tháng 4 năm
1949 thu hút được nhiều thanh niên yêu nước không sống được dưới
sự đe dọa của phe Cộng, đang t́m chỗ đứng và đất sống
cho ḿnh. Trong lúc ấy, cường độ chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh gia tăng
đáng kể, nhất là kể từ khi Việt Minh, được cộng sản Trung Hoa
chi viện sau khi Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch vào năm
1949. V́ nhu cầu tăng quân số để ứng phó với t́nh h́nh chiến sựù, chính
phủ quốc gia VN và Pháp đẩy mạnh chương tŕnh bành trướng QĐQGVN như
là một h́nh thức “Việt Nam hoá” chiến tranh mà sau này Mỹ cũng áp dụng
với mục đích đứng đắn hơn.
Mặc dầu được bành trướng v́ nhu cầu chiến trường, nhưng
Quân đội viễn chinh Pháp chỉ huấn luyện và trang bị cho QĐQGVN ở
mức giới hạn, chắc hẳn là v́ không mấy tin cậy vào quân lực này. Đến
năm 1954, quân số QĐQGVN có khoảng 180,000 người, được tổ chức
thành các tiểu đoàn bộ binh, nhẩy dù, một số đơn vị pháo binh, thiết
giáp nhẹ, công binh, một số phi cơ trinh sát nhe và những hải đĩnh nhỏ.
Với đơn vị cao nhất là Liên Đoàn Lưu Động (Mobile Group) tham chiến
trên các chiến trường, QĐQGVN chưa phải là đe dọa đáng ngại cho
các lực lượng Việt Minh.
4.. Những Khó Khăn Của QĐQGVN
Nh́n toàn cảnh cuộc chiến
Đông Dương 1946-1954, lực lượng quân sự phe quốc gia Việt Nam có nhiều
thế bất lợi:
a) Bộ Tư Lệnh quân Viễn Chinh Pháp vẫn nắm giữ toàn quyền điều
khiển chiến tranh và các kế hoạch hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN và các
BTL Quân Khu chỉ có một số quyền hạn nhỏ hẹp. Thực tế cho thấy
người Pháp không thực t́nh muốn xậy dựng một quân đội Việt
Nam thực sự độc lập và có nhiệm vụ chiến đấu chính mà chỉ
muốn có bên cạnh họ một lực lượng phụ giúp họ trong việc giải
quyết chiến tranh nhưng không muốn từ đó tạo ra mối đe dọa cho họ
trong tương lai xa.
b) Các sĩ quan và binh sĩ QĐQG thảy đều không có cảm t́nh với người
Pháp. Họ chiến đấu bên cạnh người Pháp như một chọn lựa bất
đắc dĩ. Trong hai kẻ thù, họ phải đứng tạm
bên cạnh kẻ thù ít nguy hiểm hơn với tin tưởng trào lưu thế giới
sẽ giúp cho các nước bi trị được Mỹ và Anh nâng đỡ dành độc
lập từ tay Pháp. Một phái bộ quân sự Mỹ cạnh Bộ Tư Lệnh Pháp tại
Việt Nam giữ vai tṛ rất khiêm nhường, trong khi viện trợ của Hoa
Kỳ cho QĐQGVN đều phải đi qua tay quân đội Pháp lựa lọc và phân phối.
c) Quân Đội Pháp đă áp dụng chính sách quân sự coi khủng bố
là biện pháp chính để chống chiến tranh du kích. Các đơn vị Lê Dương,
bộ binh gốc Phi Châu và Bắc Phi (kể cả một số lính người Việt trong
các đơn vị Commando Pháp và Thân Binh) được dung túng cho tự do giết chóc, tra
tấn, hăm hiếp thường dân mà không bị trừng phạt. Nhà cửa làng mạc bị
đốt phá, nhiều xóm thôn bị tàn sát hàng trăm người một lần v́ những
lư do rất nhỏ nhặt. Quân đội Pháp đă gây ra hàng trăm vụ như vụ Mỹ
Lai (16/3/1968) mà dư luận thế giới biết đến rất ít.
Nỗi uất ức căm thù lính Pháp của dân chúng lên rất cao khiến họ quay sang ủng
hộ phe kháng chiến tạo thành sức mạnh chống Pháp cao độ. Nhiều người
tin rằng nếu lính Pháp hồi ấy chỉ cần đối xử ân cần, nhân đạo
với dân chúng mà không cần phải ban phát ân huệ hay trợ giúp nào to lớn, họ đă
có thể chiến thắng trước năm 1954. Quân Đội Pháp hầu như không
có một chương tŕnh nào về dân sự vụ, cứu trợ và thông tin tuyên truyền
nhằm tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng như Mỹ và VNCH trong cuộc chiến
tranh Việt Nam 1959-1975.
Trong lúc ấy, các đơn vị QĐQGVN kể cả các đơn vị bán quân sự
và dân quân phe quốc gia đối với dân chúng thân mật và hiền ḥa, giúp đỡ, bảo
vệ họ. Nhưng những cố gắng này không đủ để bù lại những
tội ác chiến tranh mà các đơn vị thuộc lực lượng viễn chinh Pháp
gây ra. Quân lính Pháp là những hung thần, không bao giờ tôn trọng các viên chức chính
quyền Bảo Đại chút nào, dù là cấp xă, huyện hay tỉnh như quân sĩ Mỹ
trong Chiến Tranh Việt Nam.
V́ thế nhiều quan sát viên và báo chí quốc tế dễ lầm tưởng rằng
QĐQGVN hoàn toàn là một tổ chức tay sai hay một đám lính đánh thuê của Pháp.
Cũng chính v́ thế mà nhiều binh sĩ trong QĐQGVN không có quyết tâm chiến đấu
cao, mang nặng mặc cảm “không-yêu-nước.” Quân đội không thể tuyển
mộ đủ số quân sĩ cần có.
II. THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI
VIỆT NAM CỘNG HOÀ.
Tháng 5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ, hiệp định ngưng chiến
Genève được kư kết vào ngày 20-07-1954, chia đôi Việt Nam, các lực lượng
quân sự quốc gia tập trung về Nam Vĩ Tuyến 17. Năm 1955, chính phủ Ngô Đ́nh
Diệm dành lại toàn bộ chủ quyền chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự
từ tay người Pháp, QĐQGVN sau khi dẹp tan các lực lượng B́nh Xuyên và Giáo Phái
ly khai, được cải tổ toàn diện và đổi danh hiệu thành Quân Đội
Việt Nam Cộng Hoà (QĐVNCH).
Trong 3 năm đầu, QĐVNCH gồm Hải, Lục và Không Quân được tổ
chức lại với các đại đơn vị cấp quân đoàn, sư đoàn và hệ
thống quân sự lănh thổ từ tỉnh lên đến quân khu. Bộ TổngTham Mưu
với các bộ phận trực thuộc mau chóng nhận lănh trọng trách quốc pḥng. QĐVNCH
được trang bị vũ khí và quân dụng Mỹ, tổ chức và huấn luyện
theo khuôn mẫu và binh thuyết Mỹ. Trong giai đoạn này, QĐVNCH gặp phải một
số trở ngại quan trọng như:
1. Thiếu sĩ quan chỉ huy cấp trung đội lên đến tiểu đoàn có
khả năng. Số sĩ quan trẻ có tinh thần yêu nước, có lư tưởng không
đủ để lấp chỗ trống này.
2. Một số không ít sĩ quan nguyên là lính trong quân đội Pháp thời Pháp Thuộc
được lưu lại trong QĐVNCH. Những sĩ quan này do người Pháp đào
tạo, nhiều người không dễ thích ứng với tổ chức và chính sách quân sư
ïmới,ï thiếu căn bản tư tưởng và khả năng lănh đạo một
cuộc chiến mà nhiều nỗ lực ngoài phạm vi quân sự thuần túy lại là yếu
tố thành bại: Ḷng yêu nước và tư tuởng, ư thức hệ.
3. Các bộ tư lệnh đại đơn vị cấp Quân đoàn và Sư đoàn
chưa có kinh nghiệm tổ chức và chỉ huy các cuộc hành quân có quy mô lớn.
III. TRƯỞNG THÀNH TRONG CHIẾN TRANH
- Từ năm 1959 khi CSVN khởi động cuộc chiến tranh khuynh đảo Miền
Nam VN, QĐVNCH c̣n đang ở t́nh trạng củng cố tổ chức và huấn luyện.
Đến lúc này QĐVNCH chỉ được trang bị vũ khí và quân dụng Mỹ dùng
trong Thế Chiến II. Các toán cố vấn quân sự Mỹ làm việc cạnh các bộ
chỉ huy từ cấp trung đoàn trở lên mà nhiệm vụ chính là liên lạc, yểm
trợ tổ chức, huấn luyện, tiếp vận, kỹ thuật.
- Năm 1961, CSVN gia tăng cường độ chiến tranh với chiến dịch
khủng bố sát hại các viên chức chính quyền hạ tầng cơ sở, phá hoại
các cơ sở hành chính, kinh tế, giao thông, xă hội và đột kích tiêu diệt các đơn
vị quân sự nhỏ song song với mặt trận tuyên truyền bịp bợm và vu cáo
đối phương.
Trong khoảng thời gian này, đă xẩy ra sự bất đồng về quan niệm
chiến lược ứng phó giữa Mỹ và VNCH đối với chiến lược
của cộng sản. VNCH đặt nặng nỗ lực chiến tranh tại địa
bàn nông thôn, trong lúc Mỹ chủ trương tổ chức và huấn luyện QĐVNCH theo
mô thức chiến tranh Triều Tiên.
T́nh h́nh chiến tranh chỉ chuyển hướng sau khi chương tŕnh Ấp Chiến
Lược (ACL) được chính phủ VNCH áp dụng kể từ năm 1962. Tuy rằng
chương tŕnh ACL gây ra một số bất măn nhưng đă dành lại được
thế chủ động tại nông thôn, tái kiểm soát được nhiều vùng quan trọng.
Theo dự định, hệ thống các ấp chiến lược với dân quân và lực
lượng địa phương quân sẽ kiểm soát và bảo vệ mọi vùng dân cư,
để quân chính quy QĐVNCH có thể lưu động 100% ngoài các vùng dân cư. Dự định
này có 70% khả năng thành công nếu t́nh h́nh quân sự diễn tiến như giữa năm
1963. Nhưng cuộc đảo chính 1/11/63 đă thay đổi tất cả.
- Theo cường độ phát triển chiến tranh, Hoa Kỳ bắt đầu gia
tăng viện trợ, nâng số nhân viên cố vấn quân sự, gửi các đơn vị
không lực yểm trợ hỏa lực và vận chuyển vào giúp cho QLVNCH. VNCH gia tăng
quân số với nguồn nhân lực mới động viên , bành trướng Không Quân, Hải
Quân và thành lập thêm các sư đoàn, các đơn vị Lực Lượng ĐăÏc Biệt,
Chiến Tranh Tâm Lư, Dân Sự Vụ...
- T́nh h́nh chính trị hỗn loạn ở Miền Nam Việt Nam sau năm 1963 đă khuyến
khích CSBV đổ quân vào Miền Nam. Năm 1964, QĐVNCH bị nhiều tổn thất nặng,
trong đó có trận Đèo Nhông, Phước Thành, B́nh Giả, Đức Cơ tuy có những
chiến thắng ở Plei Me, đẩy lui cuộc tấn công dữ dội ở Đồng
Xoài, khiến tinh thần binh sĩ và dân chúng sa sút mạnh. CSVN có khả năng cắt đôi
Miền Nam và chiếm toàn bộ nước VNCH. Mỹ đă cứu văn t́nh h́nh bằng cách
tham chiến trực tiếp với sự tham dự của một số quân đội đồng
minh: Nam Triều Tiên, Úc Đại lợi, Thái Lan, Tân Tây Lan.
- Từ 1965 đến 1969, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (sau khi đổi danh
hiệu từ QĐVNCH) chịu trách nhiệm b́nh định các vùng dân cư, yểm trợ
xây dựng nông thôn. Các hoạt động bên ngoài do quân lực Mỹ đảm nhiệm.
Tại những vùng xung yếu, các sư đoàn Mỹ và đồng minh được trao
cho các khu vực hoạt động gọi là Khu Vực Trách Nhiệm Chiến Thuật (Tactical
Area of Responsibility). Tuy nhiên các đơn vị cấp trung đoàn và tiểu đoàn QLVNCH
vẫn thường xuyên tham dự các cuộc hành quân hỗn hợp quan trọng với các
đơn vị Mỹ
- Biến cố Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 là một khúc quanh lịch sử
trong chiến tranh VN. Vào đêm giao thừa Tết nhằm ngày 29/01/68, Hànội bất ngờ
tung quân đánh chiếm hằng trăm thị trấn, tỉnh lỵ, quận lỵ trên khắp
lănh thổ VNCH. Mặc dầu bị bất ngờ v́ phần lớn binh sĩ nghỉ
hưu Tết, nhưng QLVNCHơ đă nhanh chóng đẩy lui quân CS và chỉ trong ṿng một
tháng tất cả các đơn vị CS xâm nhập đă bị quét sạch.
Trong kế hoạch Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy, CSVN đă phạm
một lỗi lầm quá lớn khi định ngày N (ngày mở đầu các cuộc tấn
công). Bộ Chỉ Huy tối cao CSVN đă định ngày N là “đêm Mùng Một sang Mùng
Hai Tết” theo âm lịch. Nhưng âm lịch hai miền Nam và Bắc năm ấy khác nhau
một ngày. Do đó các đơn vị VC dùng lịch Bắc Việt nổ súng vào đêm giao
thừa ở Miền Nam (Đà Nẵng, Quy Nhơn, Kontum, Pleiku, Nha Trang...) trong khi các đơn
vị khác dùng lịch VNCH nổ súng vào đêm Mùng Một (Huế, Sài G̣n và các nơi c̣n
lại). Nếu quân CSVN nổ súng đồng loạt cùng một ngày giờ, QLVNCH có thể
đă chịu tổn thất nhiều hơn tuy vẫn nắm phần thắng lợi.
Các lănh tụ tối cao CSVN quá chủ quan khi quyết định mục tiêu lớn
“Tổng Nội Dậy” và tin rằng 80% quần chúng và binh sĩ Miền Nam sẽ
đứng lên tiếp tay các lực lượng Cộng Sản. Trên thực tế không có
quần chúng ở bất cứ nơi nào nổi dậy.
CS bị tổn thất nẵng nề, hầu như toàn bộ hệ thống cán
bộ nằm vùng của CS bị tiêu diệt, bị bắt hoặc ra đầu thú.
Hànội đă thất bại nặng trong trận TCK Tết Mậu thân, nhưng lại bất
ngờ đạt được chiến thắng tại nội địa Mỹ với
sự tiếp tay của một số cơ sở truyền thông, phong trào phản chiến
Mỹ và mũi tuyên truyền của Côïng Sản quốc tế.
- Từ năm 1969, Hoa Kỳ áp dụng chính sách Việt Nam Hóa chiến tranh, trang bị
cho QLVCH nhiều vũ khí và quân dụng tối tân hiện đại. Quân Mỹ và đồøng
minh rút dần để QLVNCH lănh tùoàn bộ trách nhiệm quốc pḥng.
- 1970-1975. Năm 1970, QLVNCH hành quân tràn qua Cam Bốt triệt hạ các căn cứ của
CSBV. Năm 1971, QLVNCH mở cuộc hành quân cấp quân đoàn sang Lào để chứng tỏ
khả năng tác chiến của ḿnh nhưng không thành công. Đây là lần đầu tiên
QLVNCH mở một cuộc hành quân lớn theo phương thức chiến tranh quy ườc.
Bộ Chỉ Huy chiến dịch của VNCH và bộ phận yểm trợ của Hoa Kỳ
có những khiếm khuyết trong việc phối hợp và điều động mặc
dù tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng của các binh sĩ ở đơn
vị cấp nhỏ.
- Mùa Høè năm 1972, CSVN tung ra các cuộc tấn công mạnh mẽ vào 3 vùng trọng
yếu: Quảng Trị, Kontum và An Lộc. CSBV bị tổn thất nặng nhưng cố
chiếm giữ vài ba vùng nhỏ hẹp có dân cư để chuẩn bị giải pháp chính
trị.
- Hiệp Đinh Paris 27/1/1973 đặt
QLVNCH vào một t́nh thế mới. Toàn bộ các đại. đơn vị bị căng
dăn ra rất mỏng để giữ đất v́ địch quân vẫn tiếp tục
tấn công ở nhiều nơi. Hai năm sau, CSVN bỏ trống hậu phuơng Bắc Việt
đê tập trung lực lượng đánh phá VNCH. Trong lúc ấy, Hoa Kỳ giảm dần
viện trợ và những cuộc tranh luận ở Mỹ cho thấy rơ Mỹ sẽ bỏ
rơi VNCH.
Những trận đánh cuối cùng của CSVN đă nhắm đúng vào các nhược
điểm của VNCH. Đó là cắt ngang Miền Trung và Cao Nguyên, gây hoảng loạn tại
Quân Khu 1 và lan đến Sài G̣n, mở đường cho quân CSVN chiếm đóng toàn thể
nước VNCH.
Sau cùng, QLVNCH đă bại trận trong lúc c̣n có sức chiến đấu sau hơn 20 năm
từ lúc xây dựng trên một quân đội quốc gia c̣n thô sơ rời rạc qua giai
đoạn vừa trưởng thành vừa chiến đấu.
IV.
NGƯỜI LÍNH VNCH
a) Đời Sống Vật Chất
Binh sĩ QLVNCH được trả lương
thấp nhất so với quân đội của tất cả các nước đồng minh
của Hoa Kỳ. Vào cuối thập niên 1950, lúc lương (không tính tiền ăn) của
Binh II Mỹ là US$ 75 th́ lương Binh II VNCH tương đương với khoảng US$
14 (VN$ 516 hay bằng 60% lương lao động thấp nhất). Số lương tháng
của một binh II không đủ để nuôi vợ, nếu có con th́ càng thiếu thốn.
Do đó gia đ́nh không thể sống xa họ mà bằng mọi cách sốùng gần hay trong
doanh trại, nhiều khi theo đến tạân nơi căn cứ hành quân.
Đơn
vị nào cũng có gánh nặng gia đ́nh binh sĩ gây trở ngại lớn cho việc điều
động binh sĩ. Quân đội có nhiêù cố gắng giúp đỡ việc lập các
cư xá cho gia đ́nh binh sĩ với tiện nghi y tế, giáo dục của ngành Xă Hội,
cửa hàng Quân Tiếp Vụ (Post Exchange)... có kết quả tốt. Từ khi các tướng
lănh lên cầm quyêàn năm 1965, lương quân nhân được tăng. Nhưng những
lợi điểm này bị giới hạn nhiều khi chiến tranh gia tăng cường
độ và kinh tế khó khăn khiến mức sống của binh sĩ thắp hơn nhiều
so với người lao động tay chân ngoài quân đội hưởng lương
thấp nhất.
b) Đời Sống Tinh Thần.
Người lính VNCH không bị khép vào khuôn khổ chặt chẽ đến độ vô nhân
đạo và bị nhồi sọ bằng tuyên truyền bịa đặt như quân đội
khối Cộng. Họ được hưởng một chế độ kỷ luật
tuơng đối dân chủ, ít bi cấp trên áp bức.
Họ đă chiến đấu gian khổ lâu dài hơn bất cứ quân đội nào khác
từ 1959 truớc khi Mỹ tham chiến và tới năm 1975 – hai năm sau khi
Mỹ rút lui. Họ không được dư luận Mỹ và thế giới tự do đánh
giá đúng mà c̣n gần như bị bỏ quên hoặc xúc phạm.
Là quân nhân dưới một chế độ tự do, họ được
tự do tiếp cận với các nguồn thông tin quốc tế và quốc nội, nhất
là một trong mười người lính có máy thu thanh bỏ túi bên ḿnh và được
nghe mọi nguồn thông tin quốc tế cũng như trong nước. Do đó họ dễ
bị ảnh hưởng tinh thần nặng nề v́ dư luận phản chiến và v́
những tin tức bất lợi mà quân đội không thể che dấu họ.
Một lời đồn đại vô lư, không có căn cứ nhưng loan truyển đúng
lúc đúng chỗ có thể gây nhiều hoang mang tai hại. Đó là một trong những cái
giá chung mà VNCH phải trả để có tự do và dân chủ.
c)
Tinh Thần Chiến Đấu.
Tuy đời sống vật chất eo hẹp và công vụ gian khổ, luôn bị ảnh hưởng
bởi nhưng dư luận ác ư, người lính Miền Nam vẫn có một tinh thần
chiến đấu đáng kể. QLVNCH không thiếu những gương anh hùng sáng chói không
thua kém bất cứ quân đội nào trên thế giới kể cả những người
vợ lính cùng tham gia chiến đấu với chồng con hoặc chỉ huy thay chồng
điều chỉnh hỏa lực yểm trợ diệt địch cứu đồn trại.
Trong hoàn cảnh nguy nan nhất họ vẫn chiến đấu can đảm như trong
các trận tổng công kích 1968, 1972. Ngay cả khi hoàn toàn tuyệt vọng v́ Hoa Kỳ ngưng
viện trợ quân dụng và vũ khí, nhiều đơn vị vẫn chiến đấu
đến phút cuối. Hơn 5.000 tân binh quân dịch chưa được huấn luyện
ở Trung Tâm Tuyển Mộ và Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung sáng sớm ngày 30/4/1975 c̣n hăng
hái chiến đấu hạ được 5 chiến xa CSVN ngay trước khi có lệnh
đầu hàng.
Sau khi có lệnh đầu hàng sáng 30/4/1975, nhiều vụ tự sát của các nhân sĩ, quân
nhân, công chức và dân chúng xảy ra ở khắp nơi mà lư do chính là v́ nỗi nhục nhă
và tuyệt vọng. Cùng lúc ấy c̣n có khoảng hơn 1000 người xúc động đến
độ mất trí vĩnh viễn, tính riêng tại Sài G̣n.
Một số trường hợp điển h́nh: Ngay buổi trưa hôm ấy, một trung
tá QLVNCH tự sát bằng súng lục truớc trụ sở Hạ Viện VNCH, một
trung tá QLVNCH khác cùng vợ và 7 con tự sát bằng súng tại nhà riêng và 5 sĩ quan cấp tá
tự sát bằng độc dược tại bộ Tổng Tham Mưu. Buổi chiều,
5 trung sĩ cùng tự sát bằøng độc dược tại nhà của một người
ở khu Lăng Cha Cả.
Nổi tiếng nhất là trường hợp các Tướng Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ,
Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú đă tự sát trong ngày 30/4/75 sau khi binh
sĩ buông súng. Các vị này cũng là những tướng lănh trong sạch có tiếng trong
QLVNCH.
Tại tỉnh Chương Thiện, Tỉnh Trưởng là Đạị Tá Hồ Ngọc
Cẩn không tuân lệnh đầu hàng, cùng binh sĩ thuộc quyền tiếp tục
chiến đấu vô cùng anh dũng. Hơn 24 giờ sau khi đă hết đạn, tỉnh
lị mới bị địch tràn ngập và Đại Tá Cẩn sa vào tay địch. Ông
cuơng quyết không chịu khuất phục và bị địch hành quyết sau đó.
Chỉ v́ thiếu ngân sách tuyên truyền và v́ khuynh hướng thiên vị của một số
trong giới truyền thông , những gương hy sinh và anh hùng ấy đă không được
truyền đi rộng răi trên thế giới.
V.
CÁC CHIẾN TÍCH
Trong 20 năm chiến đấu, QLVNCH lập được nhiều chiến tích quan
trọng cả về mặt an ninh diện địa lẫn chiến tranh quy ước.
Nổi bật nhất như:
-
Tổ chức thành công các chiến dịch tiếp thu và b́nh đinh vào năm 1954 những vùng
do CS chiếm cứ phía Nam vĩ tuyến 17 phải trả lại cho chính phủ quốc gia.
- Tảo thanh dẹp phiến loạn B́nh Xuyên và các Giáo Phái ly khai năm 1954 tạo
điều kiện thống nhất quân đội quốc gia
- Hành quân chiến thắng Plei Me Cao Nguyên Trung Phần năm 1965
- Hành quân phá vỡ hậu cần CSBV tại mật khu Đỗ Xá (ranh giới Kontum-
Quảng Ngăi năm 1964ơ
- Chiến thắng Tết Mậu Thân 1968 như đă nói ở trên.
- Hành quân phá vỡ hậu cần của CSBV tại Cam Bốt năm 1971
- Chặn đứng các cuộc tấn công vũ băo của CSBV tại mặt trận
An Lộc. Dưới làn mưa pháo của CSBV có khi đến 8000 trái mỗi ngày, lực ượng
QLVNCH pḥng thủ An Lộc vẫn giữ vững thị xă, phản công tiêu diệt nhiều
chiến xa và đại pháo của địch.
- Chặn đứng và giữ vững mặt trận Kontum tháng 5 năm 1972 của
Sư đoàn 23 bộ binh trước sức tấn công liên binh của nhiều sư đoàn
CSBV
- Hành quân phản công tái chiếm Quảng Trị tháng 6 năm 1972 của Quân Đoàn I và
Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến
- Giữ vững tuyến pḥng thủ Xuân Lộc trong nhiều ngày của Sư Đoàn
18 Bộ Binh đầu tháng 4 năm 1975 trước mũi dùi tấn công ác liệt của
nhiều sư đoàn CS có thiết giáp và pháo binh yểm trợ.
- Tuy nhiên QLVNCH c̣n hàng trăm trận thắng khác ở cấp trung đoàn trở xuống
nhưng ít được hoặc không hề được nhắc nhở đến.
Ngoài ra, các đơn vị VNCH cũng tham dự cùng lực lượng Mỹ trong các cuộc
hành quân lớn từ Cedar Fall, Johnson City, Plei Me đến A Shau, Khe Sanh nhưng không mấy
khi được báo chí Mỹ nhắc đến.
- Về mặt an ninh diện địa, các đơn vị bán quân sự và Cảnh Sát
Quốc Gia đă thành công rực rỡ trong chiến dịch Phượng Hoàng phá vỡ hạ
tầng cơ sở của địch.
- Trong các chiến tích, đáng ghi nhớ nhất về mặt lịch sử chống
ngoại xâm là trận hải chiến giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng
tại quần đảo Hoàng Sa sau Hiệp Định ngưng bắn Paris.
Trung tuần tháng 1 năm 1974, quân đội Trung Cộng lấn chiếm quần đảo
Hoàng Sa của VNCH. Hải Quân VNCH ở thế bất lợi với 2 tầu tuần dương,
1 tầu khu trục, 1 tầu hộ tống, 1 đại đội Biệt Hải, 1 trung
đội địa phương quân, không được Không Quân yểm trợ, cũng
không được Mỹ giúp đỡ. Hải Quân Trung Cộng với 14 tầu đủ
loại trong đó có 4 phi tiễn đĩnh (guided-missile frigate) và có Không Quân yểm trợ.
Lực lượng Hải Quân VNCH tuy yếu hơn nhưng đă anh dũng chiến đấu
suốt ngày 19/1/1974. Kết cục phía Trung Cộng có 1 tầu ch́m, tất cả số
c̣n lại bị hư hại từ nặng đến trung b́nh; không rơ thiệt hại nhân
mạng. Phía VNCH 1 tầu tuần dương ch́m, 1 hư hại nặng và 2 hư hại trung
b́nh, chết trên 50 binh sĩ và một hạm trưởng, khoảng 20 mất tích và 50 bị
bắt. Trung Cộng chiếm giữ quần đảo này từ đó.
Trong khoảng thời gian này, Phái đoàn CSVN trong Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên khi được
yêu cầu minh định lập trường xác nhận Quần Đảo Hoàng Sa thuộc
lănh thổ Việt Nam đă tránh né không trả lời.
VI.
HOÀN CẢNH
1.
Hoàn cảnh Khách Quan
a.
Vai Tṛ của Hoa Kỳ. QLVNCH là một quân đội của một nước
độc lập, có chủ quyền. Nhưng từ khi chiến tranh mở rộng phạm
vi và cường độ, Hoa Kỳ đă dành quyền lănh đạo chiến tranh. Điều
đó dễ hiểu v́ Hoa Kỳ cung cấp gần 100% chiến phí cho QLVNCH tất họ phải
dành quyền quyết định. Hoàn cảnh này không khác ǵ hai cường quốc Cộng
Sản đối với CSVN, chỉ khác nhau về cách thức tŕnh diễn bề ngoài.
Tuy
thế Hoa Kỳ cũng vẫn tôn trọng chủ quyền của QLVNCH ở mức độ
khá cao, thí dụ như việc phía VNCH không chấp nhận đề nghị của Mỹ
lập Bộ Tư Lệnh hỗn hợp. Tuy nhiên quan niệm chiến lược và chiến
thuật của QLVNCH khác hẳn với phía Mỹ ở nhiều mặt. Ở Việt Nam
cũng như ở nhiều nước khác, nhiều người Mỹ vẫn mang tính
tự tôn ”American know-how” thích làm theo ư ḿnh. Do đó việc phối hợp giữa
hai bên kém chặt chẽ.
V́ lệ thuộc vào vũ khí và chiến phí, khi Mỹ rút viện trợ th́ QLVNCH phải thất
trận. Không một quân đội nào ngoài các cường quốc kể cả quân các nước
Cộng Sản nhỏ như CSVN có thể đứng vững khi bị ngưng viện trợ
quân sự.
Một vấn đề quan trọng về liên hệ giữa QLVNCH với quân lực Mỹ
là những cố vấn quân sự cạnh các đơn vị VNCH. Trên thực tế, họ
chỉ có các nhiệm vu liên lạc, yểâm trợ huấn luyện, hỏa lực và tiếp
vận, kỹ thuật. Các cố vấn quân sự Mỹ không có quyền hạn ǵ trong các
quyết định về quản trị nhân sự, chọn lựa tối hậu về
kế hoạch hành quân. Các sĩ quan cố vấn là lớp nguời Mỹ hiểu biết
nhiều về Việt Nam và đă tạo được cảm t́nh tốt từ phía
người Việt. Công việc làm và tư cách của họ hoàn toàn khác hẳn người
vai tṛ của nguời Pháp đối với QĐQGVN trước năm 1954. Tiếc rằng
h́nh ảnh đẹp ấy đă không được giới truyền thông chuyển đến
quần chúng Mỹ.
Cũng liên quan to lớn đến h́nh ảnh của Mỹ ở Việt Nam là vai tṛ của
CIA. Từ khi CIA gia tăng hoạt động ở Việt Nam th́ theo sau từ ngữ “CIA”
là một chuỗi huyền thoại hay cũng như dở đă gắn sâu vào kư ức của
nhiều người Việt Nam và dĩ nhiên đến tinh thần binh sĩ VNCH. Nói đến
CIA là nói đến những mưu mô gian trá và tàn nhẫn của người Mỹ, đánh
đổ những tin tưởng vào các chính sách hào phóng, trọng công lư và tự do dân chủ
của Hoa Kỳ.
b)
Phong trào phản chiến. Trong lúc QLVNCH đang chiến đấu, th́ hoàn cảnh
thế giới diễn tiến bất lợi cho chính quyền Mỹ. Phong trào chống Mỹ
trên thế giới đồng loạt với phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ mượn
Chiến Tranh Việt Nam, chế độ VNCH và QLVNCH làm đề tài cho những luận
điệu xuyên tạc, thiên vị vu cáo nhằm công kích chính quyền Hoa Kỳ, biến QLVNCH
thành con tốt thí cho những mưu đồ chính trị phe phái ở Mỹ.
c)
Vai tṛ của khối công sản quốc tế. Không nên quên rằng QLVNCH và lực
lượng đồøng minh ở Việt Nam không phải chỉ chốùng lại lực
lượng CSVN mà phải đối phó với cả khối Cộng Sản quốc tế
mà chủ yếu là Liên Xô và Trung Cộng. Hai nước này tích cực ủng hộ cuộc
chiến tranh chiếm Miền Nam của CSVN dồi dào và bền bỉ cho đến khi Mỹ
chịu thua trước.
2. Hoàn Cảnh Đất Nước.
a. Lănh đạo. Một yếu tố nội tại của đất nước
Việt Nam gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho QLVNCH và cuộïc chiến đấu bảo
vệ Miền Nam là Khủng Hoảng Lănh Đạo. Chiến dịch thủ tiêu có hệ
thống và có chọn lựa các nhân sĩ yêu nước không-cộng-sản và những thanh
niên có tài đức bị cho là sẽ trở thành các lănh tụ chống Cộng đáng kể
sau này do đảng CSVN thực hiện đă có tác dụng rơ rệt trong Chiến Tranh Việt
Nam. Lớp tuổi già dặn chỉ c̣n một ít nhân vật có uy tín và tài đức để
lănh đạo ở cấp quốc gia, không có nhiều để chọn lựa . Những
người trong lớp tuổi trẻ hơn có thể đảm trách các trách vụ cấp
cao trong chính quyền và quân đội càng ít hơn.
b.
Riêng trong QLVNCH, số sĩ quan cao cấp giữ các chức vụ chiến lược có đạo
đức, uy tín, khả năng, ḷng yêu nước và ư chí tranh đấu không nhiều. Đa
số có thể có uy tín, trong sạch nhưng rất ít người có ḷng yêu nước
đủ cuồng nhiệt để làm cho quân đội mạnh hơn, đủ ư chí và
tài năng để lănh đạo cuộc chiến tranh cam go chống lại cả khối
Cộïng Sản.
Giới lănh đạo ngành hành chánh c̣n ở vào t́nh trạng khó khăn hơn. Một số
chống cộng chỉ đơn giản v́ cho rằng CSVN là một tổ chức phiến
động, đă gây nguy hại cho bản thân và quyền lợi cá nhân họ mà thiếu hẳn
lập trường tư tưởng vững chắc.
c. Lớp người trẻ có nhiều tài năng sẽ có thể là những nhà lănh đạo
xuất sắc trong tương lai không trưởng thành kịp với tốc độ biến
chuyển của t́nh thế nên chưa thể đưa họ vào các chức vụ lănh đạo
cấp cao.
d. Trong hoàn cảnh như thế, các
chế độ phải cử nhiều quân nhân sang nắm giữ các chức vụ hành chánh.
Từ năm 1955, một số ít sĩ quan QLVNCH được chỉ định làm quận
trưởng, tỉnh trưởng v́ t́nh h́nh an ninh đặc biệt của các địa
phương cần có sĩ quan cầm đầu để chỉ huy các đơn vị
quân sự dễ dàng. Sang giai đoạn 1961 và nhất là sau năm 1965 trở đi tất
cả số tỉnh quận VNCH đều do các sĩ quan QLVNCH cầm quyền. T́nh h́nh này
giống như ở hầu hết các nước đang phát triển.
Trong chế độ quân nhân cầm quyền từ trên xuống dưới, VNCH đă
đạt được những thành quả tốt nhưng nhất thời về an ninh
trật tự, về phong cách làm việc. Tuy nhiên trong môït giới hạn nào đó, các quân nhân
cầm quyền dễ tạo khe hở cho nạn tham nhũng lan rộng cũng như có thể
tạo khuynh hướng quân phiệt.
Do đó có thể đi đến một nhận định căn bản là t́nh trạng
khủng hoảng nhân sự lănh đạo của nước VNCH cũng như của QLVNCH
là một trong những nguyên nhân chính tạo ra thất bại sau cùng ngày 30/4/1975.
3) Hạn Chế Về Tiềm Năng Chiến Tranh.
Chính nghĩa
của của Miền Nam là bảo vệ tự do, dân chủ cho VNCH nên không thể có những
chính sách mạnh bạo, cứng rắn đối với dân chúng như chính sách của CSVN
đối với dân chúng của họ để yểm trợ quân đội. Thí dụ
như VNCH không thể hy sinh mạng sống và hạnh phúc của một số đông
đảo dân chúng để huy động hàng triệu dân công và số lượng thực
phẩm lớn lao phục vụ quân đội như phe CSVN đă làm.
4) Hạn Chế về Kỷ Luật Chỉ Huy.
QLVNCH cũng không thể áp đặt một hệ thống
kiểâm soát và kỷ luật tàn bạo và giáo điều của một chủ nghĩa để
buộc binh sĩ phải tuân lệnh triệt để như quân đội CSVN v́ quan
điểm của quần chúng về dân chủ rất mạnh đ̣i hỏi con em họ
được tôn trọng trong quân đội VNCH. Người lính VNCH cũng hiểu biết
rơ về dân chủ và quyền hạn của họ nên không thể áp đặt lên đầu
họ những biện pháp quá khe khắt.
5) Nhiệm Vụ
Nặng Nề.
QLVNCH phải đối phó với một cuộc chiến tranh gồm nhiều mặt trận
ngoài mặt trận quân sự như tuyên vận, kinh tế, xă hội, văn hóa... từ ấp
xă trở lên trong điều kiện nửa du kích, nửa trận địa. Cả 3 thứ
quân (chủ lực, địa phương quân, nghĩa quân) phải chiến đấu
trên một chiến trường rộng lớn và đa dạng: phải vừa t́m và diệt
địch và chống lại các cuộc tấn công của địch mà c̣n phải bảo
vệ dân chúng, cơ sở kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, văn hóa, y tế, xă hội,
các trục giao thông... Hiếm thấy một quân đội nào trên thế giới phải
gánh vác những nhiêïm vụ rộng lớn và nặng nề như thế.
6. Những Lực Lượng Hỗ Trợ QLVNCH
Trong chiêán tranh,
QLVNCH phối hợp chặt chẽ với nhiều lực lương bán quân sự và t́nh
báo khác. Nếu không có sự phối hợp này th́ QLVNCH không thể thành công trong phần nhiều
các nhiệm vụ. Hai trong số đó
là:
a)
Cảnh Sát Quốc Gia.
Chiến dịch Phượng Hoàng của Cảnh Sát VNCH với sự
yểm trợ của CIA Hoa Kỳ đă thành công tốt đẹp, không phải bằng những
cuộc tàn sát dă man như một số người có ác ư vu cáo.
Chiến
dịch này đă phá vỡ đại đa số các cơ sở hạ tầng của
đảng CSVN tại Miền Nam vào năm 1971-1972, tạo một hậu phương tuơng
đối yên ổn phía sau các chiến tuyến, hoạt động phá hoại quấy rối
của du kích đượ c coi là không đáng kể. Nhưng đáng tiếc là QLVNCH không khai
thác được tối đa thuận lợi này trên các chiến trường năm
1972.
b)
Xây Dựng Nông Thôn
Một chương tŕnh quan trọng của chính phủ VNCH là Xây Dựng Nông Thôn mà tiền
thân của nó là các chương tŕnh Ấp Chiến Lược (1962-63) và B́nh Định (1964-65).
Các
đoàn XDNT có vơ trang hoạt động khá hữu hiệu với sự yểm trợ của
QLVNCH. Ngược lại các đoàn XDNT cũng góp phần giúp QLVNCH về mặt t́nh báo, tuyên
vận. Đại đa số các ấp xă được coi là yên ổn vào năm 1972, đặt
nền móng chính trị tạm ổn định đối với ít nhất là 60% dân số
cho đến khi t́nh h́nh quân sự suy đồi sau Hiệp Định Paris 1973.
VII.
THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
1. Lực Lượng CSVN.
Lực lượng CSVN từ du kích đến chính quy cấp địa phương và cấp
quốc gia đều được đặt dưới quyền sinh sát của Đảng
CSVN. Đảng dùng chính sách ngu dân để nhồi sọ binh sĩï về tư tưởng
một cách tinh vi và áp dụng những h́nh thức kỷ luật áp chế tâm lư để
buộc binh sĩ phải hành động máy móc. Quân sĩ CSVN được ăn no gấp
rưỡi nông dân nhưng sức khỏe và tính mạng họ bị coi thường. Tản
thương và cứu thương không được hưởng ưu tiên. Quân trang, đồ
dùng hầu như rất ít ỏi để bảo đảm tính lưu động cao. Đời
sống gia đ́nh của binh sĩ gần như không có. Do đó quân đội CSVN có
khả năng tác chiến với lưu động tính cao mặc dù rất đói rách.
Kẻ địch của VNCH áp dụng một thứ vũ khí lợi hại hơn bất
cứ thứ bom đạn nào để kiểm soát và vận động quần chúng:
đó là khủng bố kết hợp với tuyên truyền (xem phần nói về
CTTL).
Về biện pháp khủng bố, quân chính quy VNCH không có khả năng ngăn chận v́ đó
là công việc an ninh lănh thổ do các viên chức xă ấp, quận huyện chịu trách nhiệm.
Nhưng chỉ với một khẩu súng, một tên cán bộ an ninh có thể khống chế
chặt chẽ một ấp 500 dân trong vùng chúng kiểm soát ban đêm, buộc họ nộp
lương thực, đóng thuế, đi dân công, đi biểu t́nh...
Lực lượng CSVN có sức mạnh lớn nhất là nguồn nhân lực. Ở Miền
Bắc, đảng ủy xă và hệ thống hộ khẩu và lương thực khe khắt
đến từng 10 gram gạo là sức mạnh cưỡng bách hàng triệu thanh niên vào
Nam chiến đấu, xây dựng các tuyến đường tiếp vận kỳ diệu
bằng sinh mạng hàng trăm ngàn thanh thiếu niên, điều mà không chính phủ nào ở
Miền Nam dám làm dù có thể làm được.
Chế độ CSVN không tiếc sinh mạng quân lính của họ để đạt những
mục tiêu dù lớn hay nhỏ. Họ thường chấp nhận tổn thất sinh
mạng trên 5 lần, có khi đến 10 lần so với phe địch để chiếm
cứ mục tiêu. Khó có thể chỉ dùng hỏa lực quy ước mà hy vọng làm tiêu
hao nguồn nhân lực của phe CSVN được dùng không thương tiếc và không giới
hạn như thế.
2.
Truyền Thông Thù Nghịch.
QLVNCH phải đối phó với một lực lượng thù địch ở ngay bên cạïnh
ḿnh mà không thể phản công được. Đó là một số người trong giới
truyền thông có định kiến thù nghịch với Mỹ và VNCH. Họ chỉ thấy
và loan tin về sự xấu của phía bên này và luôn luôn ca tụng mọi điều mặc
dù họ không thấy và không hề biết nhiều về phía bên kia. Lực lượng thù
địch này là lực lượng chính công khai đánh bại QLVNCH mà không bị ngăn chận
hoặc tiêu diệt.
Trong nhiều trận đánh, CSVN tổn thất cực kỳ nặng nề, QLVNCH chiếùn
thắng lớn mà tin tức trung thực không được quần chúng biết đến.
Nhưng sự thực đă bị bưng bít và dối trá đă được thổi
phồng khiến nhân dân Mỹ thất vọng quay sang chủ bại và khuyếùn khích phong
trào phản chiến dâng lên cao độ.
Một trong những lư do gây ra t́nh trạng thông tin không đầy đủ và thiên vị
này là v́ đa số các phóng viên không biết tiếng Việt Nam nên chỉ đến với
quân đội Mỹ và loan tin về lính Mỹ và người Mỹ chỉ đón xem
các phóng sự về lính Mỹ mà thôi. Họ cũng ít biết về nguồn gốc lịch
sử cuộc tranh chấp quốc-cộng nên dễ bị đầu độc và lừa
dối.
VIII.NHỮNG KHIẾM
KHUYẾT.
1.
Sai Lầm Trong chính Sách Chiến Tranh
Hoa Kỳ và VNCH phạm phải sai lầm chiến lượïc ở hai mặt trận quan
trọng nhất. Phần này bàn về mặt quân sự. Phần về mặt trận
tuyên truyền và vận động dư luận sẽ được nói đến tại
mục X
Trong khi phe CSVN coi chính trị là phuơng tiện chính chỉ đạo cho các kế hoạch
của quân đội, phe VNCH và Hoa Kỳ lại coi phương tiện quân sự là chủ
yếu và dành cho các mặt trận khác ưu tiên rất thấp. Các bộ phận lănh đạo
chiến tranh giải quyết chiến trường bằng hỏa lực pháo binh và không
quân là chính. Đôi khi việc sử dụng hỏa lực pháo binh và không quân thiếu cân
nhắc đă gây những thiệt hại lớn có thể tránh được cho thường
dân, tạo ra bất măn khó hàn gắn.
Sức mạnh hỏa lực chỉ hữu hiệu tối đa ở các chiến trường
quy ước. Ở Việt Nam, kẻ địch của VNCH và Mỹ không hề quan tâm đến
số thương vong lớn lao của binh sĩ, miễn là đạt được mục
tiêu đă định. Họ cũng không quan tâm đến sự gian khổ của quân
sĩ, chỉ trang bị cho binh sĩ thật ít ỏi, nhẹ nhàng để di chuyển mau
lẹ. Khả năng phân tán rộng và nhanh khi bị phản công đă làm cho sức mạnh
hỏa lực của VNCH và Hoa Kỳ giảm nhiều hiệïu lực.
2.
Phân Nhiệm các Lực Lượng
Các đơn vị chủ lực QLVNCH được tổ chức nhằm mục đích
chiến tranh quy ước, và không thể xé nát để đối phó với chiến
tranh du kích. Trận chiến sau cùng bao giờ cũng là các cuộc điều động trân
địa chiến. Nhiệm vụ chống du kich đang lẽ là do Địa Phương
Quân và Nghiơa Quân đảm nhiệm đă không thực hiện được đầy đủ.
Các cấp hữu trách về quân sự có khuynh hướng chính quy hóa các đơn vị ĐPQ.
Nhu cầu chống du kích khủng bố đ̣i hỏi đơn vị an ninh diện
địa phải phân tán mỏng và lưu động cao nhưng nếu làm như vậy
cấp chỉ huy từ đại đội trở xuống sẽ rất vất vả.
Các binh sĩ thường ưa đi hành quân với số đông đồng đội v́
họ có cảm giác an toàn hơn.
3. Sử Dụng Binh Lực.
Một sai lầm khác là dùng quân phí phạm. Vào lúc chiến tranh chưa
lan rộng, nhiều khi chỉ có một tiểu đội du kích xuất hiện ở xa,
cả một đại đội hoặc một tiểu đoàn đă được dùng
để truy lùng dù biết rằng vô hiêu. Binh sĩ hành quân liên miên, ít được nghỉ
ngơi và bồi dưỡng. Vào thời kỳ chiến tranh lên cao, v́ lo lắng giữ lănh
thổ nên quân lực được trải ra quá mỏng. Quân sĩ ta dễ bị quấy
rối và dễ rơi vào thế bị động. Do đó khả năng lưu động
kém nên mức độ an ninh lănh thổ thấp. Trong những năm sau cùng, lực lượng
tổng trừ bị cũng bị cầm chân khá nhiều vào nhiệm vụ diện địa.
Quân đội không có một lực lượng trừ bị hùng hậu mà bất cứ
lực lượng vơ trang nào cũng cần phải có.
4.
Chống Du Kích.
Ngay từ những ngày đầu cuộc chiến nhất là từ 1959, nhiều cấp chỉ
huy QLVNCH vẫn ưa dùng các chiến thuật hành quân trận địa mà quân đội Pháp
và nhiều nước có chiến tranh thông thường áp dụng. Để đối phó
với các hoạt động du kích các cấp chỉ huy quân sự chỉ phản ứng
thụ động bằng các chiến thuật xưa cũ. Nhiều đơn vị và địa
phương có sáng kiến phản du kích rất hữu hiệu nhưng chỉ được
áp dung cucï bộ, không đuợc phổ biến và đồng nhất hóa một cách có
hệ thống trong toàn quân.
Tuy gặp khó khăn trong giai đoạn đầu của chiến tranh khi phải đối
phó với du kích chiến, các đơn vị từ cấp sư đoàn trở xuống của
QLVNCH tỏ ra hữu hiệu khi phải giao tranh với kẻ địch trong trận địa
chiến. Các cuộc tấn công và pḥng thủ chống lại lực lượng địch
đông đảo gấp 4 đến 5 lần (như mùa hè năm 1972 tại Quân Khu I), các
đơn vị VNCH đă áp dụng các chiến thuật quy ước với thành quả
khá cao. Mức độ phối hợp pháo binh, thiết giáp và bộ binh khá chặt chẽ
trong khi địch tỏ ra lúng túng trong việc điều động các đơn vị
hỗn hợp thiết giáp với bộ binh như tại mặt trận Đông Hà và An Lộc
năm 1972.
5.
T́nh Báo.
Hệ thống t́nh báo của QLVNCH cũng như của VNCH không có sức mạnh tích cực.
Tuy
có
nhiều thành công chiến thuật nhưng yếu về mang lưới chiến lược,
không có dấu hiệu xâm nhập được nhiều vào các bộ phận quân sự
trọng yếu của địch.
Ngành phản t́nh báo cũng tỏ ra hữu hiệu nhưng không đủ để phá tan
được các ổ nội tuyến cấp cao. CSVN đă gài được nhiều
nội tuyến và gián điệp trong hàng ngũ QLVNCH.
6.
Hoạt Động Đặc Biệt: T́nh Báo Vùng Hậu Tuyến Địch,
Các trại LLDB Biên Pḥng và các đơn vị Dân Sự Chiến Đấu đă đóng
một vai tṛ đáng kể trong việc huấn luyện cho các toán Thanh Niên Chiến Đấu
(sau là Nghĩa Quân) ở các ấp xă vùng ven biên nhưng chỉ thành công có giới hạn trong
việc phát giác và ngăn chận địch xâm nhập v́ vùng biên giới với Lào và Cam Bốt
quá rộng lớn.
Tuy nhiên các cuộc hành quân xâm nhập hậu tuyến địch của các toán viễn thám
và các toán biệt cách thuộc Nha Kỹ Thuật cũng như các toán hỗn hợp Việt-Mỹ
Study and Observation Group đă đạt nhiều thắng lợi mà dư luận báo chí ít biết
tới. Riêng các toán xâm nhập Bắc Việt trong kế hoạch OPLAN 34-A tỏ ra vô cùng xuất
sắc và anh dũng trên đất địch. Nhưng kế hoạch này chỉ thành công giới
hạn v́ mục tiêu, phương thức và kỹ thuật do kế hoạch đặt
ra không thích hợp mặc dù các chiến sĩ tham dự là những phần tử chọn
lọc, ưu tú và can đảm nhất của quân đội. Một số hàng trăm chiến
sĩ can trường này bị bỏ rơi, coi như đă chết trong khi họ bị
giam trong các trại tù ở Bắc Việt hơn 20 năm trời mà vẫn giữ vững
tinh thần cho đến khi chính phủ Mỹ không thể tránh né trách nhiệm nên phải
nhận cho họ sang định cư và trả trợ cấp cho họ.
7.
Quản Trị Quân Lực
QLVNCH không có một hệ thống bổ nhiệm và sử dụng nhân sự hữu hiệu.
Hàng ngũ hạ sĩ quan không được quan tâm để củng cố thành cột
xương sống của quân đội như trong các quân lực Anh Pháp Mỹ. Việc
bổ dụng sĩ quan nhiều chỗ không hợp lư và không có quy luật vững chắc.
Việc luân chuyển để đa năng hóa cán bộ không đuợc thực hiện
đứng đắn.
Hệ thống thăng thưởng không hợp lư. Huy chương bị mất giá trị
v́ được cấp bừa băi. Điều này khiến cho cấp bậc được
dùng để tưởng thưởng công trạng thay cho huy chương. Lẫn lộn
tai hại giữa công trạng và khả năng gây ra hậu quả đáng tiếc
cho uy tín của cấp bậc và khiến cho cuộc ganh đua để tiến thân của
cán bộ trong quân đội không c̣n giữ y nguyên tính chất của một cuộc thi đua
công b́nh nữa.
QLVNCH áp dụng nhiều quy tắc quản trị quân lực của Hoa Kỳ nhưng không
chịu mô phỏng theo khung tổ chức và điều hành guồng máy quân pháp của Mỹ
như tổ chức các toà quân sự “judge advocate” từ cấp tiểu đoàn (summary
court-matial) trở lên. Trái lại các cấp lănh đạo vẫn duy tŕ hệ thống phạt
theo quyết định đơn phương của cấp chỉ huy từ “cấm
trại” đến “phạt giam” (8 đến 60 ngày tù). Trên mức này mới
ra ṭa án quân sự. Hệ thống này là của Quân Đội Pháp để lại, tỏ
ra không c̣n thích hợp với QLVNCH.
IX.
NHỮNG ƯU THẾ CỦA QLVNCH
1. Về tổ chức,
QLVNCH có một hệ thống liên kết rất chặt chẽ và khoa học từ trên xuống
dưới và có trật tự chỉ huy. QLVNCH lại được trang bị những
loại vũ khí tối tân nhất nh́ thế giới và một hệ thống tiếp vận
đa dạng và hữu hiệu.
2. QLVNCH có một
hệ thống huấn luyện hiệu quả cao với các trường đào tạo sĩ
quan, hạ sĩ quan, thiếu sinh quân và nhiều trung tâm huấn luyện binh sĩ và chuyên
môn.
Tuy nhiên, công cuộc huấn luyện
về kỹ thuật các ngành thành công hơn là về những chiến thuật chống du
kích đặc biệt cho chiến trường Việt Nam.
3. Về kỹ thuật
quân sự, Pháo Binh QLVNCH có tŕnh độ kỹ thuật tác xạ khá cao. Nhiều đơn
vị Mỹ đă chọn pháo binh VNCH yểm trợ thay v́ pháo binh Mỹ trong các cuộc hành
quân hỗn hợp. Các ngành Quân Cụ, Công Binh và Truyền Tin có nhiều thành tích cao về mặt
yểm trợ kỹ thuật.
4.
QLVNCH có truyền thống kỷ luật trong diễn tập. Các cuộc phi diễn của
Không Lực được coi là xuất sắc nhất Á Châu. Trong nhiều cuộc diễn
hành lớn, các đơn vị bộ binh đang chiến đấu diễn hành với kỹ
luật hàng ngũ và đẹp không thua bất cứ đội quân nào trên thế giới.
5. Các sĩ quan và hạ sĩ quan trong QLVNCH hầu hết có tŕnh độ học
vấn văn hóa cao. Nhờ thế mà các tội phạm do các binh sĩ vô kỷ luật gây
ra bị hạn chế rất nhiều. Tuy nhiên đây cũng là một yếu điểm
so với phe CSVN. Quân đội CSVN tổ chức hàng ngũ sĩ quan cấp thấp gồm
các phần tử ít học nhưng cực kỳ trung thành với đảng nên dễ tuân
lệnh một cách máy móc và mù quáng, kiên tŕ chiến đấu và rất cứng rắn đối
với thuộc cấp.
X.
MẶT TRẬN TUYÊN TRUYỀN VẬN ĐỘNG
Cho đến nay, rất ít người đánh giá đúng sức mạnh và tác dụng của
mặt trận chiến tranh tâm lư trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh này, người lính và người dân Việt Nam là mục tiêu chính,
là chủ thể chính của mọi hành vi chiến tranh và chính trị. Ngoài những đặc
điểm chung của con người, người Việt Nam c̣n có những đặc điểm
tâm lư riêng khiến họ phản ứng khác biệt đối với cùng một
tác động tâm lư.
1.
Nỗ Lực Chủ Động của CSBV.
Nỗ lực tuyên truyền và vận động dư luận của
lực lượng CSVN nhằm bôi nhọ QLVNCH và Mỹ giữ vai tṛ tích cực và ưu tiên
hàng đầu. Không bao giờ họ bỏ lỡ một cơ hội để khoe khoang
về quân đội của họ và nói xấu kể cả vu cáo đối phương.
HọÏ đă thành công trong nhiều mưu chước lừa dối dư luận.
CSBV được cả khối Cộng Sản quốc tế yểm trợ mạnh
mẽ về mặt tuyên truyền, báo chí không kém yểm trợ về quân sự. Số sách
báo ngoại ngữ để tuyên truyền của Hà Nội phát hành tại các nước
ngoài nhiều gấp hàng trăm lần của VNCH. Có thể nói chế độ CSBV đă
“buộc dân nhịn ăn để đảng nói dóc.”
2. Sự Thụ
Động của VNCH và Hoa Kỳ.
Trái lại, các cấp lănh đạo chiến tranh ở Hoa Thịnh Đốn và Sài G̣n vốn
không coi trọng tác động tâm lư nên thường mắc vào những sai lầm và thiếu
sót nghiêm trọng trong mặt trận tuyên vận. Nhiều người coi các chiến thuật
tuyên vận là những biện pháp phụ thuộc sau khi đă hành quân xong, có rảnh th́ làm.
Phương cách chủ yếu vẫn chỉ là những việc rải truyền đơn,
phóng thanh, những chuyến khám bệnh phát thuốc, tŕnh diễn văn nghệ, xây dựng
các trạm y tế, trường học, phát quà bánh tạêng vật... Quan nịệm chủ
yếu đáng lẽ phải coi công tác CTTL là nhiệm vụ của mỗi người lính,
thực hiện bằng nụ cười, cái bắt tay thân thiện... và vận dụng mọi
cơ hội để tranh thủ “con tim và khối óc” của từng người
dân, người lính, kẻ thù và dư luận. CTTL đáng lẽ phải được coi
là nghệ thuật, không phải chỉ là kỹ thuật.
3.
Khai Thác Thắng Lợi
Phe VNCH và Mỹ không nói lên được những điều tốt về quân đội
của ḿnh trong khi Hoa Kỳ là nơi kỹ nghệ quảng cáo dẫn đầu thế giới.
Thí dụ nổi bật là chỉ v́ không quảng bá đầy đủ tin tức
mà chiến thắùng vĩ đại nhất, Tết Mâu Thân 1968, bị dư luận cho là
QLVNCH và Mỹø đại bại.
Thắng lợi quan trọng nhất của QLVNCH và đồng minh năm 1968
lại là trên mặt trận TLC, hơn hẳn mặt trận quân sự. Trước
1968, một số đông dân chúng Huế có lập trường phản chiến, chống
chính phủ Sài G̣n. Sau Tết Mậu Thân 1968, đại đa số dân chúng khắp nơi
nhất là ở Huế, đặc biệt là giới thanh thiếu niên đă quay hẳn sang
phía VNCH tạo ưu thế tâm lư cho QLVNCH. Không có quần chúng nổi dậy ở bất cứ
nơi nào như các lănh tụ CSVN tin tưởng. Thế mà Mỹ và VNCH đă không thể nói
lên cho thế giới bên ngoài biết rơ sự kiện rất quan trọng này.
Một thí dụ nhỏ cho thấy các chiến lược gia Mỹ không uớc tính được
yếu tố tinh thần của binh sĩ VNCH. Có những dấu hiệu cho
thấy cấp lănh đạo chiến tranh ở Hoa Kỳ không có dự liệu được
những tác động từ kế hoacïh Việt Nam Hóa, thí dụ như trang bị vũ
khí cho QLVNCH. Vào năm 1964 và 1965, quân CSVN đă được trang bị súng AK-47 có khả năng
áp đảo vũ khí của QLVNCH như súng trường Garand M-1, Carbine và Thompson khiến
nhiều binh sĩ VNCH mất tinh thần. Măi đến năm 1969, Mỹ mới trang bị
súng M-16A1 cho toàn thể QLVNCH. Chậm chạp, so đo, tiếc của trong “Cách Cho”
làm giảm phần nào giá trị cao quư mà “của cho” mang lại.
4.
Nỗ Lực Từ Phía Hoa Kỳ.
Quân Đội Mỹ đă có những nỗ lực chiến thuật đáng kể về
mặt trận CTTL. MACV có nhiều tiểu đoàn Tâm Lư Chiến/Dân Sự Vụ yểm trợ
các phi cơ phóng thanh và rải truyền đơn, các toán Quân Y Dân Sự Vụ kết
hợp với TLC/DSV của Việt Nam.
Kết quả ở mứùc
trung b́nh. Măi đến sau khi VNCH sụp đổ, tác dụng chậm của những hoạt
động này mới ngấm sâu trong tâm tư của nhiều người dân Miền Nam.
Pḥng Thông Tin Mỹ có những cố gắng và kỹ thuật hữu hiệu trong mặt trận
tuyên vận chung nhưng không được dành cho ưu tiên yểm trợ nên khả năng
ấy bị giới hạn.
Phía Mỹ cũng có nỗ lực giúp QLVNCH phản tuyên truyền chống lại chế
độ CSVN như xâm nhập vùng biển Bắc Việt làm công tác tuyên vận, lập
đài phát thanh mạnh Tiếng Nói Tự Do hướng về dân chúng Miền Bắc (có kết
quả tốt) và các đài phát thanh “tuyên truyền xám” khác. Tuy nhiên đây chỉ là
những nỗ lực kém ưu tiên với kỹ thuật tuyên truyền không đủ tinh
vi. Đáng lẽ phía VNCH và Mỹ phải có nỗ lực thật lớn để dư
luận thấùy rơ bản chất của chế độ CSVN tại Bắc Việt và nhất
là mặt trái của guồng máy chiến tranh của bộ đội CSBV. Các cấp
lănh đạo chiến tranh có lẽ đă không nghĩ rằng trong tuyên truyền cũng như
trong quân sự, “tấn công là biện pháp pḥng thủ hữu hiệu nhất.”
5. Nỗ Lực từ
Phía Việt Nam.
Ngay từ ngày thành lập, chính quyền VNCH và QLVNCH đăơ có nhiều cố gắng cải
tiến trận chiến tư tuởng. Từ một cơ quan Chiến Tranh Tâm Lư nhỏ
bé trước năm 1954 đến một tổ chức rất lớn là Tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị từ năm 1965, hoạt động tuyên vận sâu rộng hơn
trước. Ngành này đạt được kết quả tốt trong việc xây dựng
tư tưởng cho quân sĩ, vận động dân chúng ủng hộ binh sĩ và cuộc
chiến đâú bảo vệ Miền Nam Tự Do, giúp đỡ dân chúng về văn hóa giáo
dục, xă hội, y tế...
Đối với địch, quân đội tiếp tay tích cực với chương tŕnh
Chiêu Hồi của chính phủ VNCH, được Hồng Thập Tự quốc tế ca
ngợi về thành tích bảo vệ săn sóc tù binh.
Kết quả là quân đội đă gây được phần nào ḷng tin tuởng của
quần chúng, so với thời kỳ trước năm 1954, dân chúng hợp tác với quân
đội tích cực hơn nhiều. Số thanh niên t́nh nguyện nhập ngũ luôn luôn cao,
đặc biệt tăng vọt trong các thời điểm sôi động như Tết
Mậu Thân 1968, Mùa Hè 1972...
Con số binh sĩ CSVN hưởng ứng chính sách Chiêu Hồi lên rất cao từ năm 1966,
tổng cộng trên 160.000 người. Một số đông đảo cựu binh sĩ CSVN
nói trên t́nh nguyện nhập ngũ QLVNCH và chiến đấu rất can trường.
XI.
MŨI DÙI CHỈ TRÍCH
Các cố gắng bôi nhọ QLVNCH và đồng minh được bộ máy tuyên truyền
của CS và thái độ ác ư của báo giới phản chiến được tập
trung vào các đề tài sau đây:
1. Tham Nhũng.
Tham nhũng là căn bẹânh của mọi chính quyền, mọi quốc gia nhưng ở
VNCH nó bị khai thác sâu rộng nhất với ác ư chống lại VNCH và QLVNCH.
Nạn tham nhũng từ trước năm 1954 để lại nhưng dưới thời
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm các vụ tham nhũng bị hạn chế phần nào.
Sau đó đến thời kỳ quân nhân cầm đầu chính quyền các cấp, nạn
tham nhũng càng ngày càng trầm trọng. Chiến tranh mở rộng từ năm 1965 lại
càng tạo thêm thuận lợi cho các vụ nhận hối lộ mua bán chức vụ, trốn
quân dịch, bớùt xén các loại ngân khoản, bán vật dụng của quân đội...
Nạn tham nhũng bị báo chí Mỹ và nước ngoài phóng đại quá đáng và không chính
xác. Thí dụ nạn “lính ma” mà họ thường nói đến. Lối ăn cắp
công quỹ kiểu này không được ưa chuộng v́ dễ bị khám phá v́ có nhiều
cách ăn cắp khác dễ làm và khó điều tra hơn.
Một quan niệm được không ít các nhà lănh đạo VNCH chấp nhận và cũng
được một số nhân vật Mỹ trong vai tṛ yểm trợ tán đồng. Đó
là chấp nhận cho các sĩ quan viên chức tham nhũng có mức độ nếu họ
làm việc hăng hái tích cực và hữu hiệu. Kinh nghiệm cho thấy quan điểm
này sai lầm nghiêm trọng. Kẻ ăn cắp của công không bao giờ chịu dừng
lại ở một giới hạn nào cả.
So
với nạn tham nhũng hiện diễn ra tại Việt Nam, th́ tham nhũng ở VNCH nhất
là trong QLVNCH chỉ là các con số bé nhỏ hơn ít nhất hàng chục lần. Tuy nhiên vào
thời chiến trước một kẻ thù giỏi tuyên truyền bịa đặt và vu
cáo và báo chí bên ngoài thiên vị, có định kiến th́ mức độ tham nhũng ấy
tuy nhỏ nhưng cũng đủ gây tai hại nghiêm trọng.
2. Tội Ác Chiến
Tranh.
Phe Cộng Sản đă thành công khi vẽ ra trước mắt thế giới và đặc
biệt là trước nhân dân của họ những h́nh ảnh ghê rợn về Chiến Tranh
Việt Nam trong đó lính Mỹ và VNCH thường xuyên giết chóc, hăm hiếp, tra tấn
hàng trăm người một lúc một cách tự do không bị trừng phạt.
Dân chúng dưới quyền cai trị của CSVN chưa hề biết rơ sự thực dễ
dàng tin theo những luận điệu vu cáo này v́ họ đă từng chứng kiến quân
đội Pháp hành động như thế trước năm 1954. CSVN dựa vào những
sự kiện có thật nhưng ít ỏi để làm cho dân chúng nghe tuyên truyền tuởng
như đó là tội ác thường xuyên lính VNCH và Mỹ. V́ vậy CSVN dễ gieo căm thù
vào đầu óc quần chúng dưới tay họ.
Bất cứ một quân đội nào cũng có thể có những vụ phạm tội như
thế nhất là trong thời chiến. Các đơn vị QLVNCH không thể ngăn chận
hoàn toàn các tội phạm chiến tranh. Đă có những vụ vi phạm như cướp
bóc tài sản của dân chúng, những vụ tra tấn, giết người nhất là giết
tù binh bừa băi và những vụ hăm hiếp phụ nữ trong vùng hành quân. Tất cả là
do các hành vi cá nhân lẻ tẻ xảy ra tại những vùng xa xôi và khi các cá nhân này ở ngoài
tầm kiểm soát của các đơn vị trưởng cấp thấp. Tuy nhiên con số
những vụ phạm pháp này rất thấp so với các cuộc chiến tranh khác trên thế
giới. Hầu hết các thủ phạm đều bị truy tố và kết án.
Một thí dụ khác là công chúng Mỹ biết rất rơ vụ Mỹ Lai với 500 nạn nhân
(theo sách báo của CSVN) mà biết rất ít về vụ CSVN tàn sát trên 5,000 người ở
Huế tháng 2 năm 1968. Hoặc như các vụ rất hiếm hoi binh sĩ Mỹ và
VNCH phạm tội ác chiến tranh được đăng báo nhưng khi ṭa quân sự tuyên
án nặng nề th́ ít khi được các báo chí loan tin.
Nhưng thực tế cho thấy chắc chắn là QLVNCH chưa hề gây ra những vụ
tàn sát hàng trăm hàng ngàn nạn nhân như vậy.
Đối với tù binh, QLVNCH đối xử tương đối khá tử tế,
được các bộ phận giám sát của Hồng Thập Tự Quốc Tế công nhận.
Ngoài những vụ ngược đăi cá biệt, đời sống tù binh được
bảo đảm đúng theo Công Ước Geneva 1949. Vào lúc tiền ăn một ngày của
binh sĩ VNCH là 88 đồng th́ tiền ăn của tù binh là 100 đồng (năm 1969).
3. Tinh Thần Chiến
Đấu Thấp.
Để chứng tỏ rằng lính VNCH không chịu chiến đấu cho tự do
của Miền Nam, một số báo chí ngoại quốc có ác ư chỉ khai thác những tin tức
va øh́nh ảnh xấu về những hành động cá nhân ươn hèn chạy trốn,
bỏ hàng ngũ khi giáp chiến, như bám càng trực thăng để thoát thân khỏi vùng
giao tranh. Nhưng hầu như không mấy nhà báo này được - hoặc muốn - sinh
hoạt nhiều ngày tháng với các đơn vị VNCH để thấy rơ sức chịu
đựng gian khổ, tinh thần hy sinh và các hành vi anh hùng của tuyệt đại
đa số binh sĩ VNCH.
Một trong những lời chỉ trích v́ tin tức không đầy đủ là về nạn
đào ngũ trong QLVNCH. Quả thực v́ đời sống quá vất vả gian nguy khiến
con số binh sĩ đào ngũ lên khá cao. Theo một vài thống kê tổng số lính VNCH đào
ngũ có thể lên tới 700.000 người trong 20 năm chiến tranh.
Tuy nhiên, đại đa số lính đào ngũ này đều trở lại đơn vị
cũ hoặc t́nh nguyện vào đơn vị khác sau một vài tháng lẩn trốn để
gần gia đ́nh hoặc nghỉ ngơi. Số binh sĩ thực sự đào ngũ không
quay lại chỉ ở một con số rất thấp, có lẽ không cao hơn so với
QĐ Mỹ nhiều lắm. Đăïc biệt là số đào ngũ sang phục vụ hàng
ngũ địch c̣n hiếm hoi hơn. Các nhà báo và các nhà nghiên cứu ít ai biết hoặc
quan tâm đến các sự kiện này.
XII.
TRẬN CUỐI CÙNG.
Trong
mọi cuộc chiến tranh, trận cuối cùng thường là trận quyết định.
Trận đánh cuối cùng của Chiến Tranh Việt Nam cho thấy kẻ thắng chỉ
hơn kẻ thua ở mức độ kiên nhẫn và chịu đựng của thế lực
yểm trợ từ bên ngoài.
Vào khoảng thời gian từ 1974 đến tháng 3 năm 1975 khi CSVN mở đầu chiến
dịch tổng tấn công, viện trợ đạn dược và quân dụng tác chiến
thiếu trầm trọng, các máy truyền tin ở cấp đại đội và tiểu
đoàn chỉ dùng đuợc 10 ngày mỗi tháng. Cung suất đạn đại bác chỉ
c̣n 3 viên/khẩu/ngày. Các đơn vị QLVNCH mỗi ngày thêm mất tinh thần nhưng vẫn
chiến đấu bền bỉ.
Sau khi Phước Long bị CSVN đánh chiếm bất chấp Hiệp Định Paris mà
Hoa Kỳ không có phản ứng th́ không c̣n cách ǵ duy tŕ được ḷng tin của binh sĩ
nữa. Vậy mà đến phút chót, nhiều đơn vị vẫn c̣n chiến đấu
tiếp tục.
Cùng lúc ấy, lực lượng CSVN cũng đă suy yếu trầm trọng. Trong nỗ
lực gần như cuối cùng, các đoàn quân CSVN tiến vào Sài G̣n ngày 30/4/1975 mỗi tiểu
đoàn chỉ c̣n trên 100 binh sĩ tuy rằng số lượïng đơn vị tham chiến
rất lớn (hàng chục sư đoàn).
Tại
nhiều tỉnh, quận đồng bằng sông Cửu Long hai ngày sau khi Sài G̣n đầu
hàng, lực lượng CSVN vẫn chưa có đủ cán bộ và du kích vào tiếp nhận
các cơ sở quân sự và dân sự,
Có thể nói chắc rằng nếu quân lực CSVN bị Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa
giảm viện trợ tương tự như Mỹ cắt giảm sự ủng hộ
và quân viện cho QLVNCH th́ chế độ CSVN cũng không thể làm ǵ khác hơn là chịu
ḥa hay thua.
XIII.
HAI MƯƠI NĂM QLVNCH
Một câu hỏi không thấy mấy nhà báo hay các nhà nghiên cứu đặt ra về QLVNCH
là quân lực này đă ảnh hưởng như thế nào đến xă hội Việt Nam
khi c̣n hiện hữu cũng như sau khi bại trận và giải thể.
QLVNCH là một bộ máy quân sự, nhưng đă đóng góp trực tiếp và gián tiếp
khá nhiều cho đời sống của nhân dân Miền Nam Việt Nam.
a.
Về mặt văn hóa, các bộ phận ngành Chiến Tranh Chính Trị, Tâm Lư Chiến với
sự đóng góp của nhiều tư nhân đă tiếp tay hữu hiệu vào việc phát
triển văn hóa tư tưởng. Hội viên các hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội
đă góp phần quan trọng vào lănh vực này với nhiều tác phẩm văn chương,
khảo cứu, hội họa, điêu khắc có giá trị lâu dài. Đặc biệt là về
sinh hoạt âm nhạc, các nhạc trưởng, nhạc sư, ca nhạc sĩ quân đội
đă đóng góp một số lượng lớn các tác phẩm ca nhạc
bất hủ nhất là các ca
khúc thuần túy nghệ thuật ngoài các nhạc khúc phục vụ mục đích cổ vơ
tinh thần dân chúng và binh sĩ. Các ban nhạc và ca đoàn ngành CTCT đă đào tạo nhiều
ca sĩ có tiếng cho Miền Nam.
b.
Về mặt giáo dục và khoa học kỹ thuật, con số đông đảo các
giáo sư nguyên là sĩ quan QLVNCH biệt phái đă đem vào ngành giáo dục phần nào những
phong cách tiến bộ và thích hợp khiến nền giáo dục có không khí phóng khoáng hơn.
Riêng về khoa học kỹ thuật, các quân binh chủng QLVNCH đă đào tạo nhiều
chuyên viên ưu tú các ngành y dược, cơ khí, điện lực, viễn thông, kiến trúc,
hàng không, hàng hải...
Trong hơn 20 năm tồn tại, QLVNCH đă cùng với các cơ sở nghiên cứu và giáo
dục khoa học kỹ thuật phiên dịch sang tiếng Việt hầu hết các sách
vở, tài liệu, các thuật ngữ khoa học kỹ thuật từ tiêng Anh, khiến công
việc
các
cựu quân nhân VNCH đă có gần 400 ngàn là chuyên viên trẻ cao cấp.