Tài-liệu sau năm 1974
Chủ-quyền Việt-Nam trên Biển Đông & Họa-đồ Hải-phận
Vũ-Hữu-San
Dù Hoàng-Sa hay một số đảo
Trường-Sa bị chiếm-đóng bằng vơ-lực, Chủ-quyền và Pháp-lư vẫn thuộc
về ta
Ngày 19 tháng 1 năm 1974,
Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà đă anh-dũng chiến-đấu bảo-vệ quần-đảo
Hoàng-Sa. Với lực-lượng hùng-hậu và quân-số đông-đảo hơn gấp
bội quân ta, bọn xâm-lăng Trung-Cộng chiếm-đóng Hoàng-Sa kể từ ngày đó.
Tuy vậy, những hành-động
vơ-lực tương-tự chưa bao giờ được Công-pháp Quốc-tế cũng
như lương-tâm nhân-loại chấp-nhận. Đảo chỉ tạm thời lọt
vào tay kẻ xâm-lăng. Trong khi người Việt chúng ta và cả thế-giới luật-gia
vẫn quyết-tâm tiếp-tục tranh-đấu cho lẽ phải, chủ-quyền của
Việt-Nam trên hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa vẫn không thể bị mất!
Trong bài viết ngắn
gọn này, chúng tôi xin điểm qua những tài-liệu liên-hệ đến Pháp-lư về
"Chủ-quyền Việt-Nam trên các quần-đảo Hoàng-Sa Trường-Sa" sau năm 1974.
Bạch-Thư Việt-Nam Cộng-Ḥa,
1975
Ngay sau khi các chiến-sĩ
Hoàng-Sa của ta lăn ḿnh hy-sinh trong khói lửa để bảo-vệ Hoàng-Sa, nhiều nhà
trí-thức Việt-Nam đă hợp-biên một tài-liệu minh-chứng chủ-quyền nước
ta. Sau đó cuốn "Bạch-Thư về Hoàng-Sa và Trường-Sa" đă ra đời tại
Sài-G̣n. Bộ Ngoại-Giao phổ-biến khắp thế-giới dưới nhan-đề
Anh-ngữ là "White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands" - cơ-sở xuất-bản:
Republic of Vietnam, Ministry of Foreign Affairs, Saigon, 1975). Bạch-thư này tuy chỉ là một tập
tài-liệu ngắn gọn 105 trang, nhưng thực-sự là một tài-liệu căn-bản
khá đầy-đủ và hơn nữa, tŕnh-bày rất rơ-ràng các yếu-tố pháp-lư, lịch-sử
về chủ-quyền Việt-Nam trên hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa.
Chúng ta tiếc rằng
"Bạch-Thư về Hoàng-Sa và Trường-Sa" đă sinh ra đời dưới một ngôi
sao xấu. Ảnh-hưởng cuốn sách không được mạnh mẽ như các Tác-giả
của nó từng hy-vọng khi cùng nhau đóng góp phần tim, óc. Cũng không may cho Việt-Nam
lúc đó, ảo-giác của màn khói mù tuyên-truyền ngụy-tạo chủ-quyền Trung-Cộng
đang lúc phát-triển tối-đa, đủ hiệu-năng che lấp hoàn-toàn sự thật.
Dồn dập tiếp theo những hành-động ám muội của kẻ thù, chút ánh-sáng công-lư
đang le lói lại gặp phải cơn cuồng-phong dứt điểm: Miền Nam bị
Hà-Nội cưỡng-chiếm vào tháng 4 năm 1975. Mất hẳn nội-lực, cuốn sách
bị lắng ch́m và đi dần vào quên-lăng.
Hiểu được
giá-trị của cuốn Bạch-thư Việt-Nam Cộng-Ḥa, chúng tôi đang nỗ-lực
cho tái-bản để làm sống lại tinh-thần cuốn sách. Người Việt-Nam
khắp nơi hăy giúp sức phổ-biến nó như một tài-liệu tra-cứu căn-bản.
Tại Hải-Ngoại, bản Anh-ngữ "White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands"
không những sẽ trợ-giúp phần tài-liệu pháp-lư cho những nhà Nghiên-cứu thông-hiểu
Anh-Ngữ, nó cũng cần-thiết để thế-hệ trẻ hiểu-biết chính-nghĩa
của Việt-Nam và tiếp nối con đường tranh-đấu dang dở của chúng
ta.
Tập san Sử Địa 29: "Đặc
Khảo Về Hoàng Sa và Trường Sa"
Cùng một niềm đau
trong khi chính-quyền ra mắt cuốn Bạch-Thư, ngoài nhóm của Bộ Ngoại-Giao kể
trên, những nhà trí-thức Việt-Nam khác cũng thực-hiện được những
công-tŕnh nghiên-cứu nghiêm-túc rất đáng khâm-phục. Tập san Sử Địa 29: "Đặc
Khảo Về Hoàng Sa và Trường Sa" của Nhà Xuất-bản Khai-Trí ra đời tại
Sài G̣n. Tập san Sử Địa 29 (Số tháng 1 đến tháng 3-1975) bao gồm nhiều
bài nghiên-cứu giá-trị của các học-giả trong và ngoài nước. Những chuyên-gia
các ngành Văn-học, Sử, Địa, Địa-Chất, Luật-pháp... như Hoàng-Xuân-Hăn,
Lăng-Hồ, Thái-Văn-Kiểm, Lam-Giang, Hăn-Nguyên, Vơ-Long-Tê, Sơn-Hồng-Đức, Quốc-Tuấn,
Trần-Đăng-Đại, Nguyễn-Huy, Trịnh-Tuấn-Anh, Trần-Hữu-Châu, Trần-Thế-Đức...
hội-tụ lại để đóng góp cho cuốn đặc-khảo này.
Nội-dung các bài viết
rất phong-phú, lư-luận vững chắc. Tùy theo từng chủ-đề, các bài viết
giới-thiệu về lịch-sử, địa-lư, địa-chất, sinh-vật trên Hoàng-Sa
với đầy đủ các nguồn tài-liệu Đông Tây. Tất cả cuốn sách như
đanh thép, minh-chứng chủ-quyền của Việt Nam và quần-đảo Hoàng Sa và Trường
Sa suốt ḍng lịch-sử.
Một Học-giả
uyên-thâm, Ông Thái Văn Kiểm đă nhận-xét một cách quả-quyết như sau:
"... Như vậy là chúng ta hội đủ
những bằng-chứng cụ-thể tỏ rơ rằng các quần-đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là của ḿnh (animus) và ḿnh đang khai thác (corpus) các hải-sản, hải-sâm, phân chim, ốc,
xà cừ, phốt phát, đồi mồi, cát trắng, cát vàng,v.v... chứ không phải là hoang
đảo (res derelicta) mặc cho ai muốn chiếm th́ chiếm.
Trải mấy ngàn năm
lịch sử, tổ tiên chúng ta tranh giành từng tấc đất ngọn rau trong cuộc
bành trướng lănh thổ khắp ba mặt: Nam tiến, Tây tiến và Đông tiến, lấy
Trường Sơn, sông Cửu Long và Nam-Hải làm địa bàn sinh hoạt, như muốn
thi gan đấu sức với núi cao bể cả, nói lên chí quật cường của một
dân tộc chưa bao giờ chịu lùi bước trước nguy nan. Ngày nay, đương
đầu với những thử thách lớn lao, chúng ta chỉ có một con đường
là trường kỳ chiến đấu trên mọi mặt: quân sự, chính trị, ngoại-giao,
để bảo-vệ chủ-quyền và sự vẹn-toàn lănh-thổ, lănh-hải quốc-gia
Việt-Nam..." (Trích: Tập san Sử Địa 29: "Đặc-Khảo Về Hoàng Sa và Trường
Sa", số tháng 1 đến tháng 3-1975, Sài G̣n).
Hoả Mù trên Đấu-trường
Tuyên-truyền
30 năm trôi qua, vấn
đề chủ-quyền của "Hoàng-Sa và Trường-Sa thuộc về ai" vẫn tiếp-tục
được tranh căi. Các cơ-quan tuyên-truyền Trung-Cộng hoạt-động rất
mạnh mẽ. Tài-liệu Trung-Cộng thật nhiều, được viết dưới
mọi h́nh-thức như thơ, văn, hoạ, kịch... Tác giả là những người
Trung-Hoa lục-địa, có cả một số nhỏ người Đài-Loan, gồm người
trong quốc-nội lẫn người ở ngoại-quốc. Họ xuất-bản sách lớn,
sách nhỏ viết bằng nhiều ngoại-ngữ.
Ảnh-hưởng những
tác-phẩm này rất lớn, không những nhờ ở số lượng lớn lao mà lại
c̣n được viết bởi những cây viết tài-ba và nhiều tay khoa-bảng. Đặc-biệt
những bài viết đăng trên báo các trường luật danh-tiếng như Harvard, Yale,
Princeton, Stanford... đă có tác hại kinh-khủng. Đằng sau những giáo-sư luật-khoa
gốc Trung-Hoa, nhiều thế-hệ luật-gia học-tṛ của họ có nhiều người
Tàu và cả một số người "bản-xứ" Mỹ, Anh, Pháp... cũng đua nhau theo
đường "sư-phụ" tiếp-tục tung ra thêm các bài viết và sách vở làm bức
màn hoả-mù che lấp hoàn-toàn sự thật.
Trong hai thập-niên 70,
80; Trung-Cộng luôn luôn nắm được thế áp-đảo trong các cuộc tranh căi.
Là đàn em, Việt-Cộng giỏi nghề bắt chước, học hỏi được
chiến-thuật "biển người" của đàn anh Trung-Cộng. Nhờ đó, chúng lần
lượt đoạt xong Miền Bắc Việt-Nam năm 1954, rồi đổ người
vào cưỡng chiếm Miền Nam năm 1975. Tuy vậy, Việt-Cộng xem ra kém cỏi,
không đủ khả-năng bắt chước Trung-Cộng trong chiến-thuật tuyên-truyền
"biển sách" nơi hải-ngoại. Tiếng nói của Chính-quyền Hà-Nội về chủ-quyền
Việt-Nam trên hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa khi đó rất yếu kém, không
có chút tiếng vang nào trên trường quốc-tế. Khi nói đến Hoàng-Sa Trường-Sa,
một người Âu Mỹ b́nh-thường nghĩ rằng chính Trung-Cộng, chứ không
phải Việt-Nam, có chủ-quyền trên toàn-thể "Biển Hoa-Nam".
Hỏa-mù Quân-Sự gây rối loạn,
bất ổn
Trung-Cộng đă áp-dụng
nhiều h́nh-thức và chiến-thuật hỏa-mù khác nhau. Theo Luật-sư Nguyễn-Hữu-Thống,
người Tàu đă gây rối loạn, bất ổn, tranh chấp lung tung khắp vùng. Quân-đội
Trung-Cộng, tuần-tiễu, phóng hỏa-tiễn, thao-dượt quân-sự, lấn chiếm
bừa băi các nơi, càng gần bờ biển các nước Đông-Nam-Á càng có tiếng vang.
Mục đích của họ là làm cản trở giao thông trên mặt biển, gây áp lực quốc
tế buộc các quốc-gia liên-hệ hăy tạm gác vấn đề chủ-quyền lại
để cùng khai thác thềm lục- địa theo kiểu Đại Hàn, Nhật Bản.
Trên mặt trận tuyên-truyền,
thanh-thế người Tàu có mănh-lực như đă nói ở trên. C̣n ngoài chiến-trường,
sau khi xâm-lược Hoàng-Sa, Trung-Cộng đă chiếm thêm hàng chục hải-đảo thuộc
Trường-Sa vào năm 1989. Hải-Quân của họ cũng đánh ch́m 3 chiến-hạm
Việt-Cộng, 75 thủy-thủ bị chết và mất tích. Đứng đằng sau
vùng hoả mù tuyên-truyền, Trung-Cộng có nhiều lợi-thế, càng thêm lấn lướt,
cố thực-hiện mộng xâm-lăng toàn cơi Biển Đông.
Coi thường dư-luận
quốc-tế, người Tàu khai-thác dầu khí tại khu-vực Hoàng-Sa ngay từ thập-niên
1970. Bất-chấp lẽ phải, mấy năm vừa qua, họ mang dàn khoan dầu vào thám-sát
cả trong hải-phận Việt-Nam, chỉ cách Thái-B́nh có 38 hải-lư (hl). Trong các hăng ngoại-quốc
làm ăn với họ, một số công-ty dầu khí Hoa-Kỳ đă kư kết hợp-đồng
và mang dụng-cụ nhân-viên đến Biển Đông. Dưới sự bảo-vệ của
Hải-quân Trung-Cộng, các tàu ngoại-quốc đến thăm ḍ hay khai-thác dầu khí trong
hải-phận Việt-Nam.
Tinh-thần người Việt Quốc-gia
Đang khi Việt-Cộng
thất-bại trong việc tuyên-truyền, người Việt-Nam quốc-gia vẫn không nản
ḷng, cương-quyết tranh đấu, tin-tưởng rồi ra tiếng nói của chính-nghiă
sẽ thắng cường-quyền. Bạch-thư của Việt-Nam Cộng-Hoà công bố
năm 1974 đă nêu ra đầy đủ những lư-lẽ về chủ-quyền dân ta trên
hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa. Những lư lẽ này được người
hải-ngoại chúng ta làm sáng tỏ hơn nữa trong các tài-liệu pháp-lư đă nhiều lần
công-bố mà chúng tôi chỉ xin lược-kê một số tiêu-biểu sau đây:
(1) Thạc-sĩ Trần-Minh-Tiết
phát-hành sách "L'agression Sino-Communiste des iles Paracel Viêtnamiennes (La Guerre pour la Paix)," in tại Paris,
tháng 5/ 1975. Tác-phẩm này luận-bàn về công-pháp quốc-tế, tŕnh-bày nhiều lư-lẽ
vững-chắc xác-định chủ-quyền Việt-Nam trên Hoàng-Sa và Trường-Sa.
Vị luật-gia
tăm tiếng này lên án gắt gao Trung-Hoa Cộng-Sản đă bất-chấp luật lệ,
xâm-lăng Hoàng-Sa của Việt-Nam năm 1974.
(2) Ủy-Ban Bảo-Vệ sự
Vẹn-toàn Lănh-thổ Việt-Nam do Tiến-sĩ Nguyễn Văn Canh đại-diện phổ-biến
"Tuyên-cáo của
Trí-thức Việt-Nam tại Hoa-Kỳ về chủ-quyền Việt-Nam trên các vùng quần-đảo
Hoàng-Sa và Trường-Sa" ngày 22 tháng 7 năm 1994. Dưới sự bảo-trợ của Ủy-Ban
này, sách "Địa-lư Biển Đông với Hoàng-Sa và Trường-Sa" của một cựu
quân-nhân HQVNCH, ông Vũ-Hữu-San đă được ấn-hành. Có 2,500 cuốn sách, in thành
hai ấn-bản năm 1995 và 1996, do Ủy-Ban mang đi phổ-biến rộng răi cả Mỹ-Châu,
Âu-Châu lẫn Úc-Châu. Ngoài những lư-lẽ căn-bản về pháp-lư, các bản tuyên-cáo, tài-liệu
và sách vở của tổ-chức này cũng nối-kết các dữ-kiện địa-lư,
lịch-sử, hải-dương, địa-chất, sinh-vật, thảo-mộc, văn-minh...
giữa các Hải-đảo với đất liền của Việt-Nam để chứng-minh
Hoàng-Sa và Trường-Sa là phần lănh-thổ của Việt-Nam.
(3) Các giáo-sư Nguyễn Dư-Phủ
và Hà Mai-Phương phổ-biến bài khảo-cứu "Biển Đông hay Nam-Hải có phải
là của riêng Trung-Hoa như họ thường nhận ?" năm 1995.
Đây là phần
"Lời Bạt" trong sách "Địa-lư Biển Đông với Hoàng-Sa và Trường-Sa" của
Vũ-Hữu-San, sau đó toàn bài được đăng lại trên một số tạp-chí
như báo Ngày Nay, Houston, Texas ngày 1/5/1995.
Như tên gọi
cho thấy sách "Địa-lư Biển Đông ..." chủ ư bàn về các yếu-tố địa-lư,
thế nên Lời Bạt đă mang ư-nghiă sâu xa hơn nội-dung cuốn sách, ít nhất là trong
việc tŕnh-bày các lư-lẽ về chủ-quyền lănh-thổ. Hai giáo-sư họ Nguyễn
và họ Hà dùng ngay các tài-liệu căn-bản nhất của từ-điển Trung-Hoa như
Từ-Hải, Từ-Nguyên, Từ-Nguyên cải biên, Tối-tân thực-dụng Hán-Anh Từ-điển
... để t́m ra một trả lời dứt khoát cho câu hỏi mà nhan-đề nêu ra. Đó
là Biển Đông hay Nam-Hải không phải là của riêng Trung-Hoa. Rơ ràng hơn, bài khảo-cứu
xác-quyết rằng: giới-hạn Nam-Hải của Trung-Quốc xưa chỉ đến
ngang đảo Hải-Nam là cùng.
(4) Luật-Sư Nguyễn-Hữu-Thống,
căn-cứ trên Luật Biển Liên-Hiệp-Quốc (LB/LHQ), đă khuyến-cáo khối ASEAN
vào năm 1995 nên đưa vụ Hoàng-Sa Trường-Sa ra Toà-Án Quốc-tế. Nhân-danh chủ-tịch
Hội "Luật-gia Việt-Nam tại California" Luật-sư Thống cũng chính-thức gửi
thư cho các vị Nguyên-thủ Quốc-gia vùng Đông-Nam-Á đề-nghị đổi tên
biển Nam-Hoa thành biển Đông-Nam-Á.
Trong hồ-sơ
pháp-lư Hoàng-Sa Trường-Sa lưu-trữ ở Hội Luật-gia, chúng tôi được
biết các Luật-sư Việt-Nam đă ghi chép rằng: Cho đến nay, các bản tường-tŕnh
về Hoàng-Sa Trường-Sa đều không tham-chiếu vào Công-Ước LB/LHQ (LOS Convention).
Các học-giả Trung-Hoa và Đài-Loan nêu ra thuyết "biển Nam-Hải là biển lịch-sử
của Trung-Hoa" v́ họ không am-tường pháp-luật.
Luật-Sư Nguyễn-Hữu-Thống
tuyên-bố tại California năm 1997 rằng theo đúng LOS Convention của LHQ, các đảo
Hoàng-Sa và Trường-Sa thuộc chủ-quyền Việt-Nam v́ 4 lư-do chính-yếu sau đây:
- Các đảo này toạ-lạc
trên thềm lục-địa Việt-Nam (rộng 200 hải-lư, tiếp nối đường
lănh-hải 12 hải-lư, chạy ra biển).
- Chủ-quyền tuyệt-đối
của quốc-gia duyên-hải đối với thềm lục-địa, mặc dù có sự
chiếm đóng của quân-lực ngoại-bang (như việc Trung-Hoa chiếm đóng Hoàng-Sa,
Trường-Sa).
- Các khu dầu khí tại đáy
biển Việt-Nam là do các thủy-tra- thạch tích-luỹ từ cả triệu năm nay
do sông Hồng-Hà và sông Cửu-Long đổ ra biển.
- Địa-h́nh đáy biển
Việt-Nam tại vùng Hoàng-Sa Trường-Sa là sự tiếp nối tự-nhiên của thềm
lục-địa từ đất liền chạy xa ra ngoài biển. Có thể nói các đảo
Hoàng-Sa Trường-Sa là những cao-nguyên của thềm lục-địa Việt-Nam trên
mặt biển.
Gậy Ông khổng-lồ tự
đập lưng Ông khổng lồ
Những nhà quan-sát
thời-cuộc trong hai, ba thập-niên trước đây đồng-ư một câu trả lời
mà họ cho là hiển-nhiên: "tại sao lư-luận của người Trung-Hoa lại ào ạt
và mạnh mẽ như vậy?" Đó là v́: "Trung-Hoa không những là một nước lớn,
người nhiều mà học-giả của họ ở hải-ngoại lại đông-đảo,
số lượng bài khảo-cứu về chủ-quyền nhiều vô-cùng".
H́nh-ảnh về
chủ-quyền Trung-Hoa đă được người Tàu liên-tục vẽ vời với
cùng một kiểu cách mờ ảo như nhau. Những h́nh ảnh đó vô-cùng to lớn trong
không-gian và cũng được những "học-giả" của họ kéo dài một cách nhạt
nhoà ra cả thời-gian. Hầu như tại bất cứ quốc-gia nào, với bất
cứ ngôn-ngữ nào; người ta cũng thấy bài viết của họ nêu ra bóng dáng những
tướng-lănh, những nhà hải-hành lấp-loáng ngoài Biển-Đông đi xâm-chiếm,
đi thám-hiểm ngay từ đời nhà Hán trước cả Công-nguyên.
Tuy vậy, vải
thưa làm sao che được mắt thánh, màn tre sơn phết làm sao che được bức
trường-thành. V́ nội-dung không có thực, tất cả những nét vẽ mờ ảo
ké dài nhạt nhoà đó đă dần dần tan như mây khói.
Rồi đến
một ngày, người Việt-Nam cũng xuất-ngoại đông-đảo, cũng khảo-cứu
như người Trung-Hoa lúc trước đây. Trong các trường đại-học Âu,
Mỹ, Á, Úc; khi người Việt cùng nhau đọc những đoạn Sử, Địa
hay tài-liệu mà chính Trung-Hoa đem ra dẫn-chứng, người ta đă t́m thấy ngay sự
thực để phản-công vũ-băo. Những sự thực "chết người" này làm
cho Ông Tàu khổng-lồ bị tẩu-hỏa nhập-ma v́ trúng ngay đ̣n Gậy Ông Đập
Lưng Ông.
Chứng-tích Trung-Hoa-Học, một
đ̣n hồi-mă-thương?
Dựa vào môn Trung-Hoa-Học
của Âu-Mỹ, nhiều học-giả Trung-Cộng bù-lu bù-loa rằng mấy ngàn năm trước,
người Tàu đă hải-hành ra khơi, khám-phá hết các hải-đảo ngoài Biển
Đông. Theo kiểu "Binh Bất Yếm Trá", cách tuyên-truyền này là một đ̣n Hồi Mă
Thương hiểm-độc chăng?
Nh́n tổng-quát,
Trung-Hoa có một nền văn-hóa cổ, nhiều khám-phá khoa-học và kỹ-thuật đă
do người Tàu thực-hiện. Tuy vậy về khả-năng hải-hành, người
Trung-Hoa rất lạc-hậu. Học-giả hàng đầu về môn Trung-Hoa-Học và cũng
là tác-giả pho sách Trung-Hoa-Học đồ-sộ nhất kim-cổ "Science and Civilisation in
China" (xuất-bản tại Cambridge, 1971) xác-nhận rơ~ràng như vậy.
Một cuốn
sách khác "Eighth Voyage of the Dragon - History of China's Quest for Sea Power" của Bruce Swanson (Hải-quân Học-hiệu
Hoa-Kỳ Annapolis ấn-hành năm 1982) mở đề như sau: "Lịch-sử Trung-Hoa hàng
ngàn năm biểu-thị đặc-tính đối-kháng với tính-chất biển cả.
Suốt hai ngàn năm sau đó, hai triều-đại nhà Hán (220 TTL.- 221) và nhà Đường
(618- 907) đă biến-đổi Trung-Hoa thành một đế-quốc tráng-lệ, có căn-bản
văn-hoá lục-địa (landbased cultural empire)".
Người biết
tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây-Ban-Nha; có thể đọc các cuốn sách hay bài viết của
Wang Gungwu, Pelliot, Duyvendak, Grasso... để t́m hiểu về các chuyến viễn-dương
của tiền-nhân Việt-tộc không những ra khắp Biển Đông mà c̣n vượt
hai đại-dương là Thái-B́nh và Ấn-Độ.
Có những nhà Trung-Hoa-Học
như James Fairgrieve, đă viết trong sách "Geography and World Power" (London, 1921, p.242) rằng "người
Tàu là giống dân lục-địa với các thói quen và cách suy-nghĩ của người sống
trên đất liền suốt 40 thế-kỷ. " Một học-giả khác, E. B. Elridge viết
trong sách "The Background of Eastern Sea Power" (Melbourne, 1948, p.47) rằng "tâm-trí người Trung-Hoa chỉ
hướng về nội-địa và kiến-thức của họ về biển cả
thật là ít ỏi".
Như vậy chỉ
một thời-gian ngắn, ánh-sáng kiến-thức Trung-Hoa-Học có thực-chất đă
xoá tan mây mù tuyên-truyền Trung-Hoa-Học giả-tạo. Đ̣n Hồi Mă Thương, v́ không
biết sử-dụng, quay lại đả-thương chính chàng kỵ mă !
Cổ-sử Trung-Hoa nói lên sự
thực
Người Tàu
nói căn-cứ ở Hán-Sử, họ mồm loa mép giải tuyên-bố Lộ-Bác-Đức
và Dương-Bộc nhà Tiền-Hán (206 trước Tây-lịch - 8 sau Tây-lịch) khám-phá Hoàng-Sa,
rồi Mă-Viện nhà Hậu-Hán (25 - 219) lại đem quân đến kiểm-soát Hoàng-Sa.
Sử-kư là môn học
tiến-bộ tại Trung-Hoa. Xứ này có sử rất sớm. Ngay tiền-thời Khổng-Tử
(551-479 trước Tây-lịch), người Tàu đă viết sử. Ngày nay v́ tranh-chấp
hải-đảo Trung-Cộng lại vội vàng, đă dại dột mang các bộ Sử-kư
chính-xác đó ra làm chứng.
Đọc các sử-cương
Trung-Quốc, người ta biết rằng tướng Lộ-Bác-Đức xâm-lăng Nam-Việt,
rồi Mă-Viện tái-chiếm Giao-Chỉ sau khi đánh bại Hai Bà Trưng. Xem kỹ các sách
Hán-Sử, ai cũng đọc được thật rơ ràng rằng Lộ-Bác-Đức chưa
bao giờ tiến quân ra Biển Đông. Tiền-Hán-Thư c̣n viết là họ Lộ chưa
bao giờ ra khỏi Quảng-Châu. Ngay cả đảo Hải-Nam là chỗ cận kề,
tướng này cũng chưa hề đặt chân đến, nói chi là đất Giao-Chỉ.
Truy-cứu thêm Hán-thư, người ta cố công t́m-kiếm nhưng không thể thấy chi-tiết
nào liên-hệ đến đoàn (Nam-phương) lâu-thuyền của Dương-Bộc vượt
qua eo biển nhỏ bé Chu-Nhai. (Shore of Pearls, Edward H. Schafer, University
of California Press, Berkeley and London, 1970. Trang 12).
Chuyện Mă-Viện cũng
tương-tự. Hậu-Hán-Thư ghi chính-xác đường tiến-quân của đoàn viễn-chinh.
Mă-Viện mang chức Phục-ba Tướng-quân như Lộ-Bác-Đức, phụ-tá của
Viện mang chức Lâu-thuyền Tướng-quân như Dương-Bộc. Tuy hai vị Đại-Đô-Đốc
và Đô-Đốc này có một số lâu-thuyền nhưng quân nhà Đông-Hán gồm hơn
mười ngàn lính mộ ở Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương
Ngô; mười hai ngàn người nữa lấy ở các quận thuộc Giao-Chỉ Bộ,
cứ phải dùng đường bộ. Đại-quân đi bộ suốt từ Hồ-Nam
xuống các tỉnh Quảng-Đông, rồi Quảng-Tây, lại tiếp-tục đi bộ
men theo bờ biển, phá rừng để tiến quân sang Quảng-Yên, rồi Lăng-Bạc.
Sau đó, Mă-Viện có đuổi theo tướng Đô-Dương của Hai Bà tới vùng
Thanh-Hóa Nghệ-An nhưng rồi lại vội vă quay về. Không có bất cứ một chi-tiết
nhỏ bé nào liên-hệ tới hải-đảo, dù lớn hay nhỏ, xa hay gần bờ biển
Miền Trung Việt-nam đă được Hán-Sử đề-cập cho đến một
lần.
Trung-Hoa bắc loa kêu
ầm lên rằng Ham-đội nhà Minh chiếm đóng Hoàng-Sa. Chúng ta b́nh-tĩnh trưng-dẫn
Minh-Sử, thách-thức người Tàu chỉ vào chương nào, trang nào, ḍng nào ghi sự
kiện đó. Không những Minh-Sử không ghi chép mà cả những bản tường-tŕnh
chi-tiết hơn về hành-động đi xâm-lược của Trịnh-Hoà cũng kể
sơ sài là đoàn tàu đi ngang qua hải-đảo này, hải-đảo nọ. Một
vài chuyến hải-hành "thông-quá vô-tư" ngoài biển như vậy không tạo được
một điểm pháp-lư nào cho Trung-Cộng. Dựa vào lư lẽ ǵ họ có quyền chiếm hết các cù-lao hay quần-đảo
dọc theo hải-tŕnh qua Ấn-Độ-Dương cho đến tận Mă-đảo,
Phi-châu hay sao ?!
Ngày nay Hải-Quân Hoa-kỳ
hải-hành khắp Ngũ Đại-Dương, thăm viếng trăm ngàn hải-đảo.
Với những dụng-cụ chính xác, bản-đồ và tài-liệu chi-tiết hơn nhiều,
họ cũng không v́ vây mà có quyền nhận vơ hải-phận hay đảo-dư của
bất cứ quốc-gia nào.
Cổ-sử Trung-Hoa ghi những Sinh-hoạt
cổ nhất trên Biển Đông
Người Trung-Hoa rất
xứng-đáng hănh-diện về nền Sử-học tiền-tiến của nước
họ. Muốn t́m hiểu quá-khứ xa xưa của vùng đất Đông-Á , người
ta phải đọc các pho sử của người Tàu viết ra. Đặc-biệt khi
cần biết về những sinh-hoạt của con người trên vùng duyên-hải và ngoài
Biển Đông, việc khảo-cứu cũng không ngoại-lệ.
Tuy nhiên, trong khi người
Tàu rất muốn kể chuyện biển (sea stories) của họ ngày xưa, nhưng rất
ngại ngùng không giám đả động đến những chi-tiết ghi rơ ràng trong các
cuốn sử-kư của họ một số sử-liệu như sau:
Trong giai-đoạn đầu
mới lập-quốc qua các đời Đường Ngu, Hạ; lănh-thổ Trung-Hoa nằm
sát sông Hoàng-hà, trên cao-nguyên, c̣n rất nhỏ hẹp. Cho đến đời nhà Thương,
nước Tàu đă mở lớn hơn nhưng cũng chỉ vào khoảng tối-đa
mỗi chiều 400km x 300km, tức vài ba trăm dặm mỗi-chiều (Chine Esprit et Société,
Speiser) và rất xa biển cả. Trong lúc đó, người Bách-Việt tuy chưa tạo
được h́nh-thức quốc-gia chặt chẽ nhưng có lẽ đông đảo hơn
người Tàu rất nhiều. Đất đai họ chiếm ngự bọc quanh bờ
Biển Đông nhất-định bao la rộng lớn, ít nhất cũng lớn gấp hàng
chục lần so với nước Tàu nguyên-thủy nằm sâu trong nội-địa.
Trước thời
Xuân-Thu đă có người viết Sử. Sau đó, một nhân-tài lớn ra đời là Khổng-Tử
(551-479 trước Tây-lịch). Ông đă san-định các Kinh Thi, Thư, Lễ, Dịch cùng
biên-soạn kinh Xuân-Thu. Trong khi không nói ǵ tới các hoạt-động sông nước của
người Tàu th́ Khổng-Tử lại đề-cập tới các sắc dân miền Nam
sinh-sống ngoài hải-đảo và trên thuyền bè. Sau thời đó, số sách sử c̣n
nhiều hơn. Ngày nay, đọc các cuốn sách Hoài-Nam-Tử của Lưu-An, Sử-kư của
Tư-Mă-Thiên, Lâm-Ấp-Kư... người ta thấy lúc xưa, dân Trung-Hoa rất lạ lùng khi
thấy những dân Di, dân Man sinh-tồn với biển cả.
Bản-đồ lấy
trong cuốn sách China's March Towards the Tropics, của Harold J. Wiens (Conn, 1954) ghi-chú rằng: Căn-cứ
theo sử Trung-Hoa, địa-bàn sinh-hoạt của người Bách-Việt trải dài từ
Ngô-Việt (bán-đảo Sơn-Đông) tới Việt-Thường (Huế).
Cuốn sách Science and
Civilization in China, Vol. 4, (Cambridge ấn-hành 1971: các trang 656, 665) c̣n liệt-kê các tài-liệu cổ-thư
Trung-Hoa như Lâm-Ấp-Kư, Thủy-Kinh-Chú,
Thái-B́nh Hoàn-Vũ-Kư, Phương-Vật-chí... đă đề-cập đến những chi-tiết
khá hay như mấy ngàn năm trước tàu thuyền của người cổ Việt
đă được đúc bằng đồng, bằng sắt. Lại c̣n chuyện lư-thú
như những đoàn quân viễn-chinh của Trung-hoa đi Nam-xâm đă sử-dụng luôn
những phương-tiện địa-phương mà Sử của họ ghi rơ ràng là Nam-phương
Lâu-thuyền.
Chúng ta cũng nên biết
qua rằng có một nước Việt vùng Chekiang (Triết-Giang ngày nay) thành-lập một
trong những đoàn quân thủy đầu tiên ở Á-Đông. Vào năm 472 TTL., Hải-Quân
nước này là lực-lượng mạnh nhất thời Chiến-quốc (The Junks &
Sampans of the Yangtze, G. R. G. Worcester, Naval Institute Press, Annapolis, 1971: 607.) Quân-đội nước
Việt luôn luôn vận-chuyển, chiến-đấu trên thuyền, không bao giờ dùng ngựa
hay chiến-xa. Chiến-hạm thời đó có chiếc bọc đồng.
Cattigara, Kẻ-Chợ (Hà-Nội) trên
bản đồ Ptolemy
Qua các hải-đồ
cổ, người Tây-phương biết đến tên hải-cảng và vùng biển đầu
tiên ở Á-Đông. Đó không phải là những địa-danh Trung-Nguyên mà là tên hải-cảng
của Giao-Chỉ. Trước công-nguyên, người Âu-Châu cũng đă biết đến
Biển Đông của nước ta và Vịnh Bắc-Việt. Họ gọi chung là Cignus Magnus
(hay Sinus Magnus). Những tài-liệu sau đây giải-thích sự-kiện đó:
Sau cuộc viễn-chinh
của Alexandre Đại-đế (336-323 TTL) sang Ấn-Độ, nhiều giao-tiếp đă
xảy ra giữa Á-Âu, người Hy-Lạp biết thêm nhiều sinh-hoạt của người
Á-Châu. Eratosthene (275-195 TTL) viết sách Geographia, Ptolemy (khoảng 100-170) phát-triển môn địa-lư,
viết sách và h́nh-dung ra một bản-đồ thế-giới mà tận-cùng về phía Đông-Đông-Nam
là bán-đảo Vàng Chersonese và hải-cảng Kattigara (hay Catigara, kinh-độ 117 độ
Đông, vĩ-độ 8 độ Nam - Kinh-tuyến gốc lấy từ đảo Ferro
- (Islands of the Blest- quần-đảo Canary.) Bán-đảo Vàng là Đông-Dương và Kattigara
(có bản-đồ ghi là Cattigara) chỉ Kẻ Chợ (Kesho), Long-Biên (Lugin) hay Hà-Nội ngày
nay.
Tác-giả cuốn sách
"Ancient India as Described by Ptolemy" là J. W. McGrindle, cũng đồng-ư với các học-giả
khác, nghĩ rằng Kattigara là Hà-nội. Nơi trang 9, lời tác-giả ghi-chú : "Trung-Hoa trong
gần 1,000 năm đă được biết như là quốc-gia nằm trong nội-địa
Á-Châu (inner Asia)". Tại trang 26, ông viết: "... với lư-thuyết rằng Kattigara, điểm
xa nhất về phía Đông tới được bằng đường biển, phải
nằm gần hay trên cùng kinh-tuyến với với nước Tàu, điểm xa nhất
đi đến được qua đất liền".
Chứng-cớ của đống bản-đồ
hỗn-loạn
Tương-tự việc
khoe hăo những chứng-cớ lịch-sử, người Trung-Hoa thường loè bịp
thiên-hạ bằng các chứng-cớ bản-đồ. Chuyện họ bịa-đặt
đại-khái như thời nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh; họ đă vẽ bản-đồ
Hoàng-Sa Trường-Sa. Dù nói một cách lớn lối như vậy, nhưng người Tàu
chưa bao giờ đưa ra được lấy một tấm làm chứng-cớ cho thiên-hạ
coi.
Tuy người Trung-Hoa
không có chứng-cớ bản-đồ, nhưng người Việt-Nam tôn-trọng sự
thực lại thích lục lọi đống bản-đồ cổ xưa đó của
họ. Kết-quả công-bố (báo Tuổi Trẻ Chủ-Nhật, Việt-Nam; 26-5-1996; &
News In Review, Hoa-Kỳ; 6-6-1996) rất chính-xác và hiển-nhiên quá đến độ người
Tàu hết đường chối căi. Đó là sự kiện bản-đồ Trung-Hoa có xuất-hiện
quần-đảo Tây-Sa và Nam-Sa ra đời sớm nhất cũng không trước năm
1909. Niên-đại này quá mới, không chứng-minh được điều ǵ, và... rất
yếu nếu so-sánh với tài-liệu chính-xác của Việt-Nam.
Tai-hại hơn, v́ lập-trường
chính-phủ Trung-Hoa không vững-vàng và sự thông-tin ngay trong giới chức-quyền cũng
yếu, nên một số bản-đồ chính-thức ra đời cùng năm đó (1909)
lại không kịp tu-chỉnh. Nguy-khốn nhất cho Trung-Cộng là loạt Bản-Đồ
Đại-Thanh Đế-Quốc Vị-Trí Khu-Hoạch Quảng-Đông tỉnh và Quỳnh-Châu
phủ Nhai-Châu hội-đồ (tập Trung-Quốc Cận-Thế Địa-Dư-Đồ)
được vẽ rơ ràng là biên-giới Trung-Hoa tới đảo Hải-Nam (tức Quỳnh-Châu)
mà thôi!
Đầu thế-kỷ
20, căn-bản hiểu-biết của họ về các hải-đảo ngoài Biển Đông
c̣n sơ-sài. Rồi gần 20 năm sau, tài-liệu của Trung-Quốc về Tây-Sa (Hoàng-Sa
của ta) vẫn không có ǵ tiến-bộ hơn. Khi cố-gắng thiết-lập tờ báo-cáo-thư
Điều-Tra Tây-Sa, viên chức trách-nhiệm tỉnh Quảng-Đông đă gặp phải
nhiều khó-khăn khi văn-khố lưu-trữ Trung-hoa trống trơn, không cỏ một
tài-liệu xa gần nào liên-hệ đến quần-đảo này.
Cùng thời đó, Tác-giả
Lục-Đông-Á trong bài Nhận-định Về Quần-đảo Tây-Sa, ngay câu mở đầu
đă viết: "Quần-đảo Tây-Sa được phát-hiện từ thời nào, không
có sách Sử-kư, Địa-lư và Bản-đồ nào có ghi; thật không thể khảo-cứu
được". Bài này trích-đăng lại bởi cuốn Tuần-Hải-Kư, xuất-bản
tại Đài-Loan năm 1974, trang 175 và năm 1937, trang 186.
Trung-Hoa nhập-nhằng
vụ Tây-Sa như vậy cho đến năm 1934 lại thèm-muốn quơ-quào thêm Đoàn-Sa
và Nam-Sa (chính là Trường-Sa của Việt-Nam). Trong giai-đoạn máu tham-lam xâm-lược
nổi lên này, Trung-Hoa đă lúng-túng, gây ra những chuyện Tiền-Hậu Bất-Nhất
lố-bịch như sau:
Năm 1928, chính-phủ
Trung-Hoa Dân-Quốc tuyên-bố Tây-Sa là biên-giới phía Nam của quốc-gia. Lee G. Cordner thuộc
Hải-Quân Hoàng-Gia Úc-Đại-Lợi cho rằng "sự kiện không liệt-kê Nam-Sa vào lănh-thổ
làm suy-sụp lư-lẽ chủ-quyền của Trung-Hoa". (The Spratly Islands Disputes And The Law Of The
Sea. Trong "Ocean Development and International Law", Vol. 25, 1994, print in the UK, các trang 61-74).
Những chuyện Tiền-Hậu Bất-Nhất
lố-bịch khác nữa
Tiến-sĩ Nguyễn-Quang-Ngọc
trong khi du-khảo tại Úc-Đại-Lợi, ngoài việc phát-hiện những bản-đồ
Trung-Hoa ra đời quá trễ như kể trên, c̣n ghi-chú thêm một số chuyện Tiền-Hậu
Bất-Nhất lố-bịch khác nữa của người Tàu. Chúng tôi xin tóm gọn những
sự phát-kiến của Ông như sau:
- Theo Quảng-đông Nghiên-cứu tham-khảo,
nguyên-văn câu báo-cáo vào năm 1928 như sau: Tra Tây-Sa quần-đảo dĩ vô chí thư,
hựu vô chuyên-thư tường tái. Cho dù không thể tra-cứu về Tây-Sa, và cho dù không
hề có sách Địa-chí hay sách Chuyên-khảo nào ghi chép về Biển Đông, người
Tàu v́ mang dă-tâm, tiếp-tục bất cần sự thật, vẫn đ̣i hỏi việc
chiếm đoạt hầu hết vùng biển Đông-Nam-Á.
- Những ai theo dơi âm-mưu lấn-chiếm
của người Tàu đều nhận ra những điểm khôi-hài v́ "Bất-Thông Thời-Vụ".
Ngay tên quần-đảo, người Trung-Hoa cũng gọi một cách bất-nhất. Năm
nay ghi là Cửu Châu, năm tới kêu Thất-Đảo, lại có khi lỡ-bộ viết
là Hoàng-Sa Chử (băi Hoàng-Sa), nằm trong khu-vực Giao-Chỉ như cuốn Lịch Đại
Dư-Địa-Đồ Mục-Lục (1906). Danh-từ Băi Hoàng-Sa, hay Băi Cát Vàng là những
tên người Việt thường gọi quần-đảo của ḿnh.
- Lạ lùng hơn nữa, sự bất-nhất
xảy ra ngay trong cùng một cuốn sách căn-bản và hệ-trọng như "Dương-Pḥng
Tập-Yếu". Trong pho Huấn-Thị Tuần-tiễu gồm tới 24 quyển này (in năm
1938) người ta thấy ngay sự khác-biệt nhau: (1) Bản-đồ "Trực Tỉnh
Hải-Dương Tổng-đồ" vẽ một quần-đảo ngoài khơi, ghi là Vạn-Lư
Trường-Sa (2) Một Bản-đồ khác là "Quảng-Đông Dương-đồ" lại
đánh dấu ngay đúng vị-trí đó với một cái tên khác hẳn, đó là Cửu-Nhũ
Loan-Châu.
- Bản-đồ vẽ và ghi đă
hỗn-loạn như vậy, mà cả những tập sách có nhiều lời chú-giải cũng
lung-tung hết sức. Lấy thí-dụ về bộ "Quỳnh-Châu Phủ Chí". Bộ sách này
tuy có tới 14 Bản-đồ hầu hết nằm trong nội-địa, không hề đánh
dấu các địa-danh nào như Cửu-Nhũ Loa-Châu, Thiên-lư Thạch-Đường, Vạn-Lư
Thạch-Đường, Vạn-Lư Trường-Sa. Tuy vậy khi nhắc đến các quần-đảo
trong bài viết, tác-giả lại ghi tên của chúng lẫn-lộn với nhau: lúc th́ gọi
là Thiên-Lư Trường-Sa, Vạn-Lư Thạch-Đường (trang 55) đến trang 417, lại
gọi là Vạn-Lư Trường-Sa, Thiên-lư Thạch-Đường.
Trong ḍng hải-sử
Biển Đông nhiều ngàn năm dư, danh-từ Tây-Sa (Hsisha) là một thứ hậu-sinh,
chỉ mới xuất-hiện gần đây. Đó là khi Đề-Đốc Lư-Chuẩn đưa
tàu thám-sát Hoàng-Sa vào năm 1909.
Lại có một truyện
tức cười nữa ở đây. Lần này, Hạm-trưởng Chauvaire thuộc Hải-Quân
Pháp kể lại bằng một bài viết đăng trong báo La Nature số 2916, xuất-bản
tại Paris ngày 01-1-1933, trang 385-387. Chúng tôi xin ghi lại một đoạn đại-ư như
sau:
"Nhắc lại chuyện hai chiếc
pháo-đĩnh nhỏ bé của tỉnh Quảng-Đông mang hiệu-kỳ Đề-Đốc
Lư-Chuẩn đến Hoàng-Sa trong năm 1909, ghé lại quần-đảo một khoảng
thời-gian không quá 24 giờ. Vậy mà đến ngày 20-6-1909, đại-nhật-báo Quảng-Đông,
tờ Kouo Che Pao cho đăng tin lớn...
Tôi nghĩ (lời Hạm-trưởng
Chauvaire) thật là khôi-hài. Ông "Đề-Đốc nhà ta" và đám thủ-hạ ít oi của
ông không những đă khảo-sát kỹ-lưỡng hết thảy các ḥn đảo, đụn,
cồn, bờ cạn băi ch́m của vùng biển Hoàng-Sa mà c̣n trong giây lát vẽ ra được
một bản-đồ tổng-quát toàn-thể quần-đảo cùng 15 chiếc bản-đồ
đầy đủ chi-tiết chuyên-môn nữa... Trong vài giờ thôi nhé! Sau hết, Đề-đốc
đă gom đủ yếu-tố để xem xét sâu xa và kết-luận là Trung-Hoa có thể
xây-dựng được đến hai hải-cảng trong vùng!"
Râu Ông nọ Cắm vào Cằm Bà kia
Không rành tên đảo,
Trung-Cộng vẫn trâng-tráo mạo-nhận chủ-quyền của đảo. Lỳ lợm
hơn, trong khi loay hoay với âm-mưu xâm-lược, người Tàu c̣n đem tên quần-đảo
này ra công-bố lẫn lộn với danh-xưng quần-đảo kia. Đó là trường-hợp
cái tên Nam-Sa.
Hiện nay, Trung-Cộng
tuyên-bố chủ-quyền trên quần-đảo Trường-Sa của Việt-Nam mà họ
gọi là Nam-Sa. Lịch-sử của cái tên mới, tên cũ, tên từ kẽ đất nẻ
chợt chui lên hay cái tên từ bụi rậm bỗng nhảy ra ở miền Biển Đông
này, mọi người cũng nên xem qua để biết rơ:
- Cho đến năm 1935, lần đầu
tiên cái tên hai Quần-đảo Nam-Sa và Đoàn-Sa xuất-hiện trong cuốn sách "Trung-Quốc
Địa-Lư Tân-Chí". Nam-Sa là tên đầu tiên đặt cho quần-đảo đá ngầm
Macclesfield Bank, gợi ư-nghiă quần-đảo ở biên-giới phía Nam của Trung-Hoa. Đoàn-Sa
là tên đặt cho quần-đảo Spratlys (tức Trường-Sa của Việt-Nam).
- Sau khi Trung-Cộng cướp được
chính-quyền, họ nảy sinh ư-đồ xâm-lược toàn-bộ Biển Đông. Vào khoảng
năm 1949, Macclesfield Bank bị lột mất cái tên Nam-Sa, đổi thành Trung-Sa để
biên-giới phía Nam kéo dài xuống phía đảo Natuna của Nam-Dương vào sát đảo
Bornéo của Mă-Lai-Á.
- Cái tên Đoàn-Sa lúc đó (1949) biến
mất. Danh-từ Nam-Sa từ Macclesfield Bank mang đi hàng ngàn cây-số xuống phía Nam để
gắn làm tên gọi cho quần-đảo Spratlys. Đă có câu hỏi tại sao Trung-Hoa thay
tên đổi chỗ các quần-đảo như vậy? Nửa thế-kỷ qua đi, Chính-quyền
Bắc-Kinh vẫn không thể nào đưa ra được một lư-giải nào tạm gọi
là xác-đáng.
Lưỡi Rồng, chữ U hay một
cái tên U minh minh. Ù cạc cạc?
Câu truyện "khu-vực
biển h́nh chữ U" của Trung-Hoa tương-tự như truyện ma-giáo, đại-đạo
giang-hồ trong tiểu-thuyết kiếm-hiệp của họ. Không cần căn-cứ pháp-lư,
chẳng cần nguyên-do; Trung-Cộng nhận chủ-quyền toàn-thể Biển Đông. Họ
vẽ ranh giới vùng "Lưỡi Rồng" của họ một cách khơi khơi, quẹt
sát bờ biển Trung-Việt (cách Cù-lao Ré chừng một khoảng 40 hl) xuống Indonesia qua
gần Mă-Lai-Á (cách Bornéo ước- lượng 25 hl) ṿng lên sát Phi-luật-Tân (cách Palawan vào
chừng 25 hl.)
H́nh chữ U vẽ "tưới"
ra, không có một tiêu-chuẩn hay căn-bản hay ... dựa trên bất cứ một tọa-độ
địa-dư nào hết. Khu-vực này là lănh-hải, là hải-phận kinh-tế, là thềm
lục-địa, là khu-vực đánh-cá... hay khu-vực này - đă trong quá-khứ, hay sẽ
trong tương-lai - mang một h́nh-thức pháp-lư chủ-quyền như thế nào? Thật
chỉ là những đ̣i-hỏi tham-lam và mập-mờ, không có ai hay biết mà chính Bắc-Kinh
cũng chưa bao giờ xác-nhận chi-tiết nào tương-tự.
Người Tàu chỉ
cho biết "Lưỡi Rồng" mang tính-cách lịch-sử. Tuyên-truyền là như vậy,
nhưng chính-sử Trung-Hoa chưa bao giờ ghi-chép việc họ chiếm-đóng Hoàng-Sa/ Trường-Sa.
Địa-dư chí nước Tàu cũng chẳng bao giờ viết rằng nước Trung-Hoa
phía Nam giáp Nam-Dương, Mă-Lai-Á... Vậy mà người Trung-Hoa thời nay giám cho rằng
lịch-sử là một yếu-tố chính làm căn-bản cho chủ-quyền nước
Tàu trên toàn-thể Biển Đông.
Thấy truyện thậm-chí
vô-lư này, Luật-gia chuyên về hải-dương Mark J. Valencia đă nhận-định: "Không
có một nguyên-lư nào trong luật-pháp quốc-tế thời hiện-đại cho phép một
kiểu lư-luận như thế !".
Để giúp mọi
người như chúng ta có thể t́m hiểu thêm, hai Giáo-Sư Yann-huei Song, (Academia Sinica, Taiwan)
và Peter Kien-hong Yu (National Sun Yat-sen University) đă truy nguyên nguồn gốc câu truyện xảy
ra từ đâu. Hai người chính gốc Trung-Hoa này cũng không hiểu nổi nguyên-do tại
sao và sự suy-luận mà đồng-bào của họ ở Hoa-Lục thế nào mà sản-sinh
ra một thứ kỳ-lạ như vậy. Hai Ông này đề-nghị chúng ta đi t́m người
vẽ (!) ra đường chữ U đó để hỏi xem tại sao anh ta làm như vậy?
Xin quư-vị đọc thêm chi-tiết trong bài "U shape, China's "Historic Waters" in the South China Sea:
An analysis from Taiwan, ROC. Trong báo American Asian Review, Vol. 12, No. 4, Winter, 1994, các trang 83-102.)
Đối với một
số người, chữ U làm họ liên-tưởng đến những sự u-mê, tăm
tối... V́ ấu-trĩ, hoặc v́ mập mờ muốn đánh lận con đen hay v́ u minh
minh, ù cạc cạc mà người Tàu nói liều chăng?
Hoàng-Sa có từ-thạch hút tàu sắt
không cho qua (!?)
Ngoài sách Sử-kư, Địa-Dư
mang ra dẫn-chứng hàm-hồ, người Trung-Hoa c̣n mang thêm những sách du-khảo ra, làm
ra vẻ như họ có dư thừa tài-liệu. Họ mệnh-danh mấy cuốn đó
thành một thứ lịch-sử chiếm-đóng. Như đă tŕnh-bày ở trên, v́ không có
tài-liệu thực-sự chiếm-đóng tương-đương như Nhà Nguyễn (từ
thế-kỷ 15) mà bàn-dân thiên-hạ chúng ta phải nghe những chuyện "trời ơi đất
hỡi" như sau đây:
(a) Theo ông Tề Tân và một số
người Trung-Hoa khác, sớm về đời Đông Hán đă thấy chép như sau: trong
cuốn Dị Vật Chí của Dương Phu: "ở vùng hiểm nguy đảo Hải Nam
nước biển không sâu mà có nhiều từ thạch khiến những chiếc thuyền
lớn của người ngoại quốc có đóng chốt sắt tới nơi đó v́
có chất từ thạch nên không qua được." Thật là dị-đoan, người
không đi biển, không biết hải-đảo thường hay kể chuyện huyền-hoặc
mà Anh-Ngữ có một từ thật chân-xác là "Sea Stories."
Cụ Lăng-Hồ nhận-xét
rằng: Đành rằng câu đó có nói tới quần-đảo người VN thường
gọi là quần-đảo Hoàng Sa mà người Tàu gọi là Tây Sa quần-đảo, nhưng
không có ở tiết nào xác nhận là của Trung-Hoa. Trái lại có vài điểm đủ
chứng-tỏ quần-đảo đó thuộc lănh thổ cố hữu của VN. Trước
hết cuốn Dị Vật Chí của Dương Phu không phải là một tác phẩm đời
Đông Hán. Theo Đường Thư Nghệ vân chí, cuốn đó có nhan đề đầy
đủ là Giao Châu Dị Vật Chí và là một tác phẩm đời Đường. Do
hai chữ Giao Châu và do ư nghĩa của nhan đề (Dị Vật Chí), quần-đảo
được miêu tả với đặc tính là có nhiều từ thạch chính là quần-đảo
Hoàng Sa của Giao Châu, tức là của Việt-Nam đời Đường vậy!
Những chuyến Hải-tŕnh của
người Trung-Hoa
Như đă nói ở
trên, một vài chuyến hải-hành "thông-quá vô-tư" ngoài biển không tạo được
một điểm pháp-lư nào cho chủ-quyền quốc-gia. Những chuyến đi biển
để du-lịch, hành-đạo (như của các nhà Sư Trung-Hoa), hải-hành thử
tàu thuyền (như thời nhà Tống), thường-dân đánh cá ghé đảo lấy nước...
chẳng phải là những chứng-cớ khi bàn đến chuyện sở-hữu hải-phận
theo Luật Biển Quốc-Tế hiện-hành. Tuy vậy, khi đưa đẩy những
câu truyện "tào lao" ấy ra ngoài, người Tàu c̣n vô-ư đưa cả ra các yếu-tố
"phản chủ" hay rất "yếu" như khi người Tàu phải quá-giang tàu thuyền nước
khác.
Trong Chu Phiên Chí, tuy tác-giả
có nói tới Thiên Lư Trường Sa (thuộc quần-đảo Hoàng Sa chứ không phải
Trường Sa của VN, mà người Tàu nay gọi là Nam Sa) và Vạn Lư Thạch Sàng, nhưng
không thấy có chỉ-tiết nào nói rơ những đảo dư đó thuộc quản hạt
của Hải Nam. Cả đến Thất Ly Dương thấy có chép tới trong Tống
Sử Kỷ Sự Bản Mạt, quyển 188, chương 1, do ông Tề Tân dẫn ra, tuy
là một biệt xưng của quần-đảo Hoàng Sa về đời Tống, nhưng
trong sử liệu trên cũng không có chỗ nào chép rằng Thất Lư Dương thuộc
lănh thổ Trung Quốc đời Tống.
Mặt khác, sử liệu
đầu tiên có nói tới người Tàu vượt biển Nam Hải là cuốn Phật
quốc Kư chép truyện Pháp Hiển hồi đầu thế kỷ thứ 5 chu du trong 15 năm
qua nhiều xứ trung Á để sưu tầm tài liệu về Phật Giáo. Lúc ra đi,
vị cao tăng này đă đi đường bộ nhưng khi ở Ấn-Độ về
TQ đă đi đường biển trên một chiếc thuyền lớn không phải của
người Tàu.
Sá ǵ sự phân chia hải-vực độc-đoán
của người Tàu
Riêng nước ta thời
xưa đă từng được mệnh danh là nước Giao Chỉ đă bất chấp
sự phân chia hải vực độc đoán của người Tàu, chứng-cớ là phần
Biển Đông thuộc lănh hải phía bắc VN bầy giờ, từ bắc vĩ tuyến
20 đến bắc vĩ tuyến 15, đă được mệnh danh là Giao Chỉ Dương,
danh xưng này cũng đă thấy được ghi trên bản đồ của Mao Khôn nói
trên. Trước đó, Chu Khứ Phi đời Tống cũng đă gọi là biển đó
Giao Chỉ Dương.
Kế đến, người
Pháp lại dùng danh xưng Paracels phiên âm tự tiếng Bồ đào Nha ra để chỉ
quần-đảo Hoàng Sa của VN. Trong cuốn Mémoire sur
la Cochinchine, J.B, Chaigneau (1769-1852) có chép như sau: La Cochinchine dont le Souverain porte aujourd'hui le titre
d'Empereur comprend la Cochinchine proprement dite, le Tonkin... quelques iles habitées peu éloignées de la côte et l'archipel
des Paracels, nghĩa là "xứ Giao Chỉ China mà quốc vương nay đă xưng Đế
hiệu gồm có chính xứ Giao chỉ Chỉ-Na, Bắc Hà; ... Vài ḥn đảo dân cư thưa
thớt cách bờ biển không xa cho lắm và quần-đảo Paracels ".
Trong cuốn Univers,
histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes (1833). Giám-Mục Taberd cũng
đă ghi rơ như sau: Nous n'entrerons pas dans l'enumérations des principales iles dépendantes de la Cochinchine.
Nous ferons seulement observer que depuis de 34 ans l'archipel des Paracels nommé par les Annamites Cát Vàng ou Hoàng Sa (Sable
jaune) véritable labyrinthe de petits ilots de rocs et de bancs de sable justement redoutés des navigateurs a été occupé par
les Cochinchinois, nghĩa là: "Chúng tôi không đi vào việc liệt kê những ḥn đảo chính
yếu của xứ Giao-Chỉ Chi-Na. Chúng tôi chỉ xin lưu-ư rằng từ hơn 34 năm
nay, quần-đảo Paracels mà người Việt gọi là Cát Vàng (Hoàng Sa) gồm rất
nhiều ḥn đảo nhỏ chằng chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô
lên giữa những băi cát đă được người Việt xứ Đàng Trong chiếm
cứ, đă khiến những kẻ đi biển phải kinh sợ.
Trong hai đoạn
Pháp Văn trích dẫn bên trên, có vài điểm đáng chú ư.
a) Một là danh xưng Bồ
đào Nha Parcel (Pracel) và danh xưng Pháp Paracels đồng nghĩa với những danh xưng
của người Tàu như Thạch Đường nghĩa là bức đê, bức tường,
bờ cao bằng đá. Do nghĩa đó, có thể suy ra rằng thương nhân người
ngoại quốc thuở xưa gồm có người Tàu, người Bồ đào Nha, người
Ḥa Lan, người Pháp, v.v... đă từng có những kinh nghiệm đầy lo ngại đối
với quần-đảo Hoàng Sa của VN.
Tàu bè của họ
vốn là những chiếc thuyền lớn hoặc tàu lớn có chốt sắt nên họ
rất sợ phải qua vùng Hoàng Sa là nơi tục truyền có nhiều đá mọc ngầm
dưới mặt biển thuyền tàu lỡ va phải là vỡ. Bởi vậy người
Tàu mới có câu "Thượng phạ Thất châu hạ phạ Côn Lôn", nghĩa là Trên th́ sợ
Thất Châu dưới th́ sợ Côn Lôn hoặc "Khứ phạ Thất Châu hồi phạ Côn
Lôn" nghĩa là Đi th́ sợ Thất Châu về th́ sợ Côn Lôn. Trái lại, dân VN miền duyên
hải Trung Việt như đă nói trên thường vượt biển trên những chiếc
ghe bầu, không hề sợ hăi đối với Hoàng Sa và Trường Sa như đă chứng-tỏ
danh xưng lâu đời của hai quần-đảo này mà họ chỉ coi là những băi
cát vàng và cát dài.
b) Điểm nữa đáng chú
ư là những sự kiện có liên quan đến người Bồ đào Nha, Ḥa Lan và Pháp từ
thế kỷ 16 đă chứng-tỏ là cố lai người Tàu không hề có nắm được
độc quyền hàng hải trên biển mà họ mệnh danh là biển Nam Hải. Đành
rằng từ thế kỷ 12 nghề hàng hải của họ đă tiến bộ nhiều
nhờ bắt đầu biết ứng dụng Kim Chỉ nam vào việc hàng hải nhưng
theo nhiều sử gia có uy tín thời người Ả Rập đă thực hiện được
sự ứng dụng đó từ lâu trước người Tàu. Thực tế tuy người
Tàu đă biết chế ra xe chỉ nam từ đời nhà Chu nhưng theo sự khảo cứu
của J. Chalmers trong Trung Quốc tạp chí (China Review, XIX, 52-54) thời sự phát minh thứ
xe đó đă không tất nhiên dẫn đến sự đồng thời phát minh ra la bàn
hàng hải. (Xem thêm bài "Hoàng Sa - Trường Sa: Lănh thổ Việt Nam" tác-giả Nguyễn
Khắc Kham. Tập san Sử Địa 29: "Đặc-Khảo Về Hoàng Sa và Trường
Sa", số tháng 1 đến tháng 3-1975, Sài G̣n).
Tài-liệu Thích Đại Sán
và Hải ngoại Kư Sự
Trong những tập
kư-sự của thế-kỷ 17, bộ Hải ngoại Kư sự của Nhà Sư Thích Đại
Sán nổi tiếng nhất, được nhiều người biết đến. Tác-giả
là một vị lăo tăng đời Khang-Hy đă đến đất Thuận hóa dưới
triều Nguyễn Phúc Châu ngày 29 tháng giêng năm „t Hợi (13-3-1695) và rời chùa Thiền
Lâm để vào Hội an về Quảng đông ngày 28 tháng 6 cùng năm đó, (7-8-1695).
Đọc qua các
đoạn văn của Hải Ngoại Kỷ Sự, người ta có thể nhận thấy
rằng trong khoảng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, chủ-quyền VN
trên hai quần-đảo Hoàng Sa và Trường Sa đă được hành sử dưới
nhiều h́nh thức như đánh thuế xuất nhập tàu bè ngoại quốc, thiết
lập những đội chuyên thâu lượm hải vật, kinh nghiệm bản thân của
các dân chài bản xứ đối với hai quần-đảo đó, v.v...
Chúng tôi mời
quư-vị xem thêm chi-tiết trong "Thích Đại Sán, Hải ngoại Kư Sự, Sử liệu
nước Đại Việt Thế Kỷ XVII" Toàn bộ 7 quyển, Viện Đại
Học Huế. Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt-Nam. Huế 1963. Đặc-biệt
là quyển sách "Hải Ngoại Kỷ Sự" Quyển ba.
Nhận-Xét của Ông Tạ-quốc-Tuấn
Về Lập Luận Của hai chính-phủ Bắc-Kinh và Đài-Loan
Ngoài những đợt
Hỏa-mù được tung ra khắp nơi, hai chính-phủ Trung-Cộng và Đài-loan cũng
cho công-bố một số văn-kiện pháp-lư chính-thức. Khi bàn về những luận-cứ
đó, Ông Tạ-quốc-Tuấn, một học-giả Việt-Nam có các nhận-định
xác-đáng như sau:
Qua việc nghiên-cứu
các lời tuyên-bố của hai chính-phủ Bắc-kinh và Đài-bắc liên-quan đến vấn-đề
chủ-quyền trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa từ năm 1951 đến
nay, chúng ta nhận thấy rằng cả hai chính-phủ này có luận-cứ vu-vơ, mơ-hồ
và vơ-đoán. Họ chỉ nói đi nói lại nhiều lần là Trung-quốc có chủ-quyền
bất-khả tranh-nghị hay chủ-quyền hợp-pháp và chủ-quyền đó có từ
xa-xưa lắm rồi, nhưng lại không đưa ra được một bằng-chứng
cụ-thể nào, căn-cứ vào các tiêu-chuẩn lịch-sử, địa-lư hay luật quốc-tế,
để chứng-minh là chủ-quyền đó thuộc về Trung-quốc. V́ vậy những
luận-cứ đó hoàn-toàn không có tính-cách thuyết-phục, dù là đối với những
người đễ tính nhất. Cái lầm lớn nhất của cả Bắc-kinh lẫn
Đài-bắc là cứ làm như chủ-quyền đó là vấn-đề đương-nhiên,
không cần biện-minh.
Sở-dĩ chúng
tôi (lời Ông Tạ Quốc-Tuấn) bảo là sai-lầm là bởi v́ khi có sự tranh-chấp
về một quyền nào đối với vật nào, các phe đương-tranh ít nhất
cũng phải đưa ra các bằng-cớ cần-thiết để chứng-minh quyền
sở-hữu của ḿnh đối với vật tranh-chấp ngơ hầu có thể thuyết-phục
những người ngoại-cuộc. Việc không chứng-minh quyền sở-hữu này
có thể khiến cho người ngoại-cuộc nghĩ rằng sự thực th́ phe không
đưa ra bằng-chứng không hề có quyền sở-hữu, mà hành-động đ̣i
chủ-quyền chỉ là v́ do ḷng tham muốn chiếm-đoạt vật của người
khác.
Ngoài ra, cả Bắc-kinh
lẫn Đài-bắc đă có hành-vi bất-hợp-pháp là cố t́nh coi việc giải-giới
quân-đội Nhật-bản đóng ở hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa
năm 1946 là Trung-quốc đă thu-hồi hai quần-đảo này để rồi vin vào
đó họ tuyên-bố chủ-quyền của Trung-quốc trên hai quần-đảo, mặc
dù các quốc-gia đồng-minh trong trận Thế-chiến thứ II chỉ quyết-định
giải-giới quân-đội Nhật-bản đóng ở đây thôi chứ không hề quyết-định
qui-hoàn hai quần-đảo này cho Trung-quốc. Ngay cả trong Hoà-ước Cựu-kim-sơn
năm 1951 Nhật-bản cũng không hề tuyên-bố hay nh́n-nhận qui-hoàn Hoàng-sa và Trường-sa
cho Trung-quốc.
Lư-do này rất
dễ hiểu: các nước đồng-minh trong Thế-chiến thứ II củng như
Nhật-bản đều biết rằng hai quần-đảo này không phải là phần
lănh-thổ của Trung-quốc. Hành-vi bất-hợp-pháp này có hậu-quả rất tai-hại
là nhiều người ngoại-quốc không nghiên-cứu kỹ và chỉ dựa vào các tuyên-bố
của Bắc-kinh hay Đài-loan đă mặc-nhiên nh́n-nhận chủ-quyền của Trung-quốc
trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa. Các tài-liệu do người ngoại-quốc
viết về vấn-đề này đă cho thấy rơ hậu-quả tai-hại đó. Rất
hiếm, nếu không thể nói quả-quyết được là không có, tài-liệu do người
ngoại-quốc biên-soạn hay viết đă tham-chiếu các tài-liệu của Việt-nam
chứng-minh chủ-quyền đối với Hoàng-sa và Trường-sa thực sự thuộc
về Việt-nam, mà chỉ tham-chiếu tài-liệu của Trung-quốc, cả quốc-gia
lẫn cộng-sản thôi.
Ngay cả việc
giải-giới do Quốc-quân Trung-hoa thực-hiện năm 1946 cũng là hành-vi không hợp-pháp
nốt. Một mặt, qua hiệp-ước kư với Pháp ngày 28.2.1946 Trung-hoa Dân-quốc đă
chuyển-nhượng việc giải-giới quân-đội Nhật-bản ở bắc
vĩ-tuyến thứ 16 cho Pháp nhưng mặt khác cuối năm 1946 lại cho quân đến
giải-giới quân-đội Nhật-bản chẳng những ở Hoàng-sa mà c̣n ở cả
Trường-sa nữa, để sau này vịn vào hành-động đó cả hai chính-phủ
Bắc-kinh và Đài-bắc coi là Trung-quốc đă tiếp-thu và có chủ-quyền trên hai quần-đảo
này. Như vậy, nếu áp-dụng riêng luật quốc-tế theo yêu-sách của Trung-Cộng
không thôi chúng ta thấy là Trung-quốc cũng không có tư-cách pháp-định làm chủ hai
quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa.
Nói tóm lại, luận-cứ
chính-thức của hai chính-phủ Trung-Cộng và Đài-loan không có sức thuyết-phục
được ai về chủ-quyền của Trung-quốc trên hai quần-đảo Hoàng-sa
và Trường-sa v́ đă không đưa ra được một bằng-chứng nào và lại
dựa vào hành-vi bất-hợp-pháp. (Chúng tôi xin mời xem toàn bài của Ông Tạ-quốc-Tuấn,
cùng đăng trong website này)
Danh từ Paracels, Pracels xuất
hiện trong lịch-sử giao-tiếp Việt-Nam và Tây-phương
Danh từ Pracels
xuất hiện lần đầu tiên trên một bản đồ của Bán đảo Đông
Dương (Carte de la Peninsule Indochinoise) do Frère Van Langren, một người gốc Ḥa Lan, ấn
hành năm 1595. Bản đồ này phác họa nhờ những tài liệu của người
Bồ Đào Nha, nối gót nhà hàng hải Vasco de Gama, đă tiên-phong đông-du t́m kiếm xứ
Ấn-Độ bằng đường biển (route maritime des indes) bằng cách đi ṿng
mũi Hảo Vọng (Cap de Bonne Espérance) năm 1497.
Theo giáo sư Pierre
Yves Manguin, danh từ Ilhas do Parcel (Pracel) do người Bồ Đào Nha đặt ra trước
đó. Trong từ ngữ của họ, danh từ Parcel có nghĩa là "đá ngầm" (récif),
cao tảng (haut-fond). (Xem biên khảo "Les Portugais sur les côtes du Việt Nam et du Campa") đăng
trong Bulletin de l' Ecole Francaise d' Extrême Orient, année 1972, page 74). Sau này người Pháp, người
Anh gọi là Paracels.
Ai cũng biết
ngoài khơi của Quảng Nam / Quảng Ngăi trở vào Nam có nhiều ḥn đảo. Khi người
Việt-Nam chiếm ngụ những vùng đất cũ Chiêm-Thành (nôm na là Chàm), họ gọi
tên các đảo này là “ḥn Chàm, cù-lao Chàm” cũng như họ từng gọi những
con sông, ngọn núi là “sông Chàm, núi Chàm”. Xa hơn nữa ra ngoài khơi Biển Đông
là những vùng băi cát thấp rộng mênh mông, người Việt gọi là “Băi Cát Chàm”.
Sau một thời-gian, những tên gọi nôm-na đó thay đổi, chỉ c̣n tên gọi một
tên ḥn đảo lớn nhất là Cù-Lao Chàm ngang Hội-An. Băi Cát Chàm v́ có cát màu vàng nên người
Việt-Nam đổi tên gọi cho chính-xác hơn là Băi Cát Vàng. Theo từ Hán Việt, đó
chính là quần-đảo Hoàng Sa.
Theo tin VietNamNet (08:25 08/02/2004 (GMT+7), GS.TS
Nguyễn Quang Ngọc, chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường ĐH KHXH&NV (ĐH
QG Hà Nội) công bố một số tư liệu và bản đồ do ông t́m thấy, trong
đó có nhiều tấm bản đồ khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam.
Đó là bản đồ (nguyên bản của công ty Đông Ấn Hà Lan) với ḍng đánh
dấu vùng quần đảo giữa Biển Đông ghi rơ "Baixos de Chapar" (tức là băi cát của
Cham pa). Hay tấm bản đồ đánh dấu vùng bờ biển tương đương
với khu vực Quảng Nam, Quảng Ngăi là "Costa de Paracel" (có nghĩa là "bờ biển Paracel",
tức bờ biển Hoàng Sa). Điều này khẳng định Paracel (Hoàng Sa) là thuộc
Việt Nam.
H́nh trái - Một trong những bản đồ của Công ty Đông Ấn Hà Lan, đánh dấu quần đảo ở giữa Biển Đông
là Baixos de Chapar và vùng bờ biển tương đương
với khu vực Quảng Nam, Quảng Ngăi là "Costa de Paracel"
H́nh phải - Đây là tấm bản-đồ đầu tiên của
Công-ty Đông-Ấn người Anh, họa-viên cũng ghi những ḍng chữ phụ-chú như
sau để thông-báo cho các tàu thuyền qua lại Biển Đông:
I. de Pracell tức Quân-đảo Hoàng-Sa (hàng chữ ngang)
P. Camber tức Băi cát Chàm (hàng chữ dọc)
R. Camber tức Sông Chàm vùng duyên-hải B́nh-Định / Phú-Yên.
Chứng-tích hiển nhiên về Chủ-quyền
Việt-Nam trên các bản-đồ cổ Tây-phương
Nếu chúng ta hỏi
một người Trung Hoa: Có chứng-tích nào chứng-minh Chủ-quyền của Trung-Hoa hay
Việt-Nam trên các bản-đồ cổ Tây-phương không? Chắc-chắn họ sẽ
trả lời: Không. Người Tàu trả lời "không" v́ thực-sự không có bản-đồ
nào như vậy giúp cho họ thêm được một tài-liệu tranh căi chủ-quyền.
Nhưng nếu
chúng ta lại đặt câu hỏi đó với một người Việt-Nam rành địa-lư,
sử-kư; một người thích bản-đồ cổ, hay bất cứ một người
từng hành-thủy Việt-Nam hay một thủy-thủ thuộc một đệ-tam quốc-gia
nào đă hải-hành ngang qua vùng Đông-Nam-Á, chúng ta cũng sẽ thấy mọi người
hăng-hái trả lời là họ nh́n thấy rất nhiều. Tại sao chứng-cớ chủ-quyền
Việt-Nam trên bản-đồ cổ lại nhiều như vậy ? Chúng tôi xin giải-thích
như dưới đây.
Tiếp-theo việc
vẽ quần-đảo Paracels/ Hoàng-Sa của Frère Van Langren, những hải-đồ Biển
Đông được nhiều nhà họa-đồ khác nối-tiếp vẽ thêm nhiều
chi-tiết với đồng một quan-điểm là Hoàng / Trường-Sa thuộc về
Đại-Việt. Khi các nhà hàng-hải, thuyền-trưởng, giáo-sĩ, thương-gia
... qua lại Biển Đông, họ thường lái tàu sát bờ biển nước ta, tiếp-súc
với chính-quyền Đại-Việt, gặp gỡ người Việt, hỏi-han tin-tức
hải-hành. Khi họa hải-đồ, các nhà xuất-bản, không những chỉ người
Ḥa-Lan vẽ, mà c̣n nhiều người nước khác cũng thu-thập tài-liệu về
Hoàng-Sa và ta thấy sự phản-ảnh chủ-quyền Việt-nam trên những hải-đồ
c̣n để lại cho đến ngày nay.
Việc hải-thương
tấp-nập, tàu buôn có chiếc mắc nạn ngoài Hoàng-Sa. Thuyền-trưởng đă liên-lạc
với chúa Nguyễn nhờ cứu giúp. Cũng đă có tranh-chấp, kiện-cáo về tài-sản.
Một lần, chính-quyền Trung-Hoa đă phủ-nhận chủ-quyền của họ trên
quần-đảo ... (Xem thêm chi-tiết trong Bạch-Thư VNCH
"White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands").
V́ những lư-do như
trên, ngày nay chúng ta có thể thâu-thập được rất nhiều sử liệu Tây-Phương
minh-chứng cho chủ-quyền của Việt Nam. Các tác-giả, tuy khác nhau quốc-tịch,
nhưng đồng ḷng làm chứng rằng hai quần-đảo Hoàng Sa và Trường Sa
thuộc sở-hữu nước ta từ lâu. (Xem "Những sử liệu Tây Phương
minh-chứng chủ-quyền của Việt Nam và quần-đảo Hoàng Sa và Trường
Sa từ thời Pháp thuộc đến nay". Thái Văn Kiểm. Tập san Sử Địa
29: "Đặc Khảo Về Hoàng Sa và Trường Sa", số tháng 1 đến tháng 3-1975, Sài
G̣n).
Trong số lượng
khổng-lồ của những bản-đồ hải-hành thực-hiện bởi người
Ḥa-Lan, người Bồ-Đào-Nha, người Tây-Ban-Nha, người Anh, hay người
Pháp; chúng tôi chỉ xin tŕnh-bày sơ-lược một số hải-đồ tượng-trưng
như sau:
- 1606. Jodocus Hondius vẽ hai nhóm đảo
Hoàng Sa và Trường Sa như một cái cờ đuôi nheo uốn quanh Đại-Việt
và Chiêm-Thành, cái đuôi dính liền với các đảo vùng Phan-Thiết.
- 1630. Cloppenburg vẽ hai nhóm Hoàng Sa và
Trường Sa chạy dài từ khoảng ngoài khơi Cửa Sông Gianh kéo phần đuôi quần-đảo
vào sát vào khu bờ biển ngoài khơi Phan Rang
- 1650. Merian vẽ hai nhóm quần-đảo
riêng rẽ có tính cách tượng-trưng: Hoàng Sa ngang vùng biển Đà-Nẵng, Trường
Sa ngang vùng biển Cam Ranh.
- 1664. Thevenot vẽ hai nhóm Hoàng Sa và Trường
Sa với cái đuôi chỉ tới vùng ngoài khơi Nha-Trang.
- 1719. Chatelin vẽ hai nhóm Hoàng Sa và Trường
Sa dính liền nhau, rất lớn và rất sát với bờ biển Trung-phần, có chỗ
chỉ cách đất liền Việt-Nam chừng mươi, mười lăm hải-lư.
Hầu hết các hải-đồ
tương-tự (ước-lượng hàng trăm bản) có vẽ các phương-vị-độ
để chỉ hướng lái tàu đi từ các quần-đảo ngoài khơi vào đất
liền Đại-Việt. Không có hướng rơ rệt để thương-thuyền có
thể tiếp-cận bờ biển Trung-Hoa.
Chúng ta cầu lưu-ư
một điểm về đặc-tính khách-quan, của những nhà hàng-hải lần đầu
giao-tiếp với Á-Đông. Họ đi t́m đất buôn bán, không hay biết nhiều các
quan-điểm chính-trị hay thiên-lệch chủ-quyền nước nào. Nhu-cầu tối-thượng
của họ khi họa Hải-Đồ là vẽ thật gần với thực-tế. Họa-đồ
nhắm vào mục-đích là cung-cấp các chi-tiết hải-hành như thế nào để
tàu-thuyền tránh tai-nạn ngoài biển.
Nh́n qua những họa-đồ
Biển Đông trong giai-đoạn hai thế-kỷ 17 và 18, bất cứ một con mắt
khách-quan nào cũng rơ ràng nhận ra ngay là Hoàng-Sa Trường-Sa thuộc lănh-thổ nước
ta và không thể thuộc về bất cứ một quốc-gia nào khác.
V́ thấy những địa-danh
được nhiều họa-viên hàng-hải vô tư, ghi-chép rơ-ràng những địa-danh
thuộc chủ-quyền Việt-Nam liên-tiếp nhiều thế-kỷ như vậy; Trung-Cộng
đă (một là) cố-ư che dấu, (hai là) khi chúng ta mang ra dẫn-chứng, họ lờ đi.
Quan-điểm của người
Pháp, người Anh
Như mọi người
đă biết Anh Pháp là hai trong Lục-Quốc từng xâu xé Trung-Hoa, lập thuộc-địa,
chia tô-giới. Pháp lại đô-hộ Việt-Nam. Tuy vậy các tài-liệu do các người
của hai nước Anh, Pháp biên-soạn thường bênh-vực chủ-quyền các hải-đảo
Biển Đông cho Việt-Nam.
Sau một thời-gian
dài sinh sống, nghiên-cứu Địa-lư tại Trung-Hoa, một người Pháp tên L. Richard
đă viết cuốn "Địa-Lư Đế-Quốc Trung-Hoa" (Géographie de l'Empire de Chine). Sách
xuất-bản năm 1905 tại Thượng-Hải. Trong cuốn sách đó, Ông viết rằng
Hoàng-Sa thuộc Việt-Nam. Nhà in nằm tại Trung-Hoa, nhân-viên cũng là người Trung-Hoa.
Sau khi xuất-bản, sách lại được người Trung-Hoa trong chính-quyền và giới
nghiên-cứu đọc, không có ai phản-ứng v́ mọi người đă như mặc-nhiên
công-nhận chủ-quyền đó của Việt-Nam.
Cuốn "Géographie de l'Empire
de Chine" tiêu-thụ rất nhanh tại Trung-Hoa cũng như tại hải-ngoại, nên sách
được tái-bản. Một người Anh tên M. Kennelly, xin với tác- giả L. Richard
để tu-chỉnh và chuyển-ngữ sang tiếng Anh. Cuốn sách mới nhan-đề
"L. Richard's Comprehensive Geography of the Chinese Empire and Dependencies" (translated into English by M. Kennelly, S.
J.) cũng in tại Shanghai, T' usewei Press, xuất-bản năm 1908. Trong đó, phần địa-lư
mô-tả các hải-đảo ngoài biển (Section IV. The coast-line of China, The Coast-Line of Kwangtung)
tác-giả ghi nhận là quần-đảo Thất-Châu liên-hệ với Việt-Nam hơn
là với Trung-Hoa : “The Paracels or Ts'ihchow (Seven Islets) - These lie to the S. E. of Hainan, and seem attached
rather to Annam than to China”. Chúng tôi ghi lại nguyên-văn câu Anh-Ngữ trên v́ hai lư-do:
- Khi cuốn sách được soạn-thảo,
t́nh-h́nh chính-trị có vẻ sẽ đưa tới việc Nhà Cầm-quyền Trung-Hoa muốn
đ̣i chủ-quyền trên quần-đảo Hoàng-Sa, lúc đó đang thuộc Việt-Nam.
- Trong khi Việt-Nam gọi quần-đảo
là Hoàng-Sa (hay nôm na là Băi Cát Vàng), người Pháp và người Anh gọi là Paracels. C̣n người
Trung-Hoa cho đến năm đó, 1908, vẫn c̣n dùng một cái tên mập-mờ là Thất-Châu.
Trên thực-tế, quần-đảo gồm rất nhiều hải-đảo, cồn, đụn,
ch́m có, nổi có: số lượng đảo (Châu) lớn hơn con số 7 (Thất) rất
nhiều.
Tập Hồ-Sơ Đế-Quốc
Anh
Tài-liệu dưới
đây tuy đă cũ nhưng cũng kể là mới v́ chỉ được khám-phá ít năm
gần đây (1986) mà thôi.
Người Anh thường-thường
rất tế-nhị về chính-trị và khéo-léo trong ngoại-giao. Ít khi chúng ta được
nghe chính-quyền Anh lên tiếng bênh-vực hay chống đối về chủ-quyền trên
các Hải-Đảo vùng Á-Đông. Các tài-liệu pháp-lư của họ, cũng v́ nhiều lư-do
thận-trọng trong đường lối ngoại-giao, đă không được chính-phủ
Anh-Cát-Lợi công-khai tuyên-bố rầm rộ. Tuy vậy nếu truy-t́m kỹ-càng các tài-liệu
pháp-lư về tranh-chấp thuộc-địa Anh Pháp, chúng ta có thể t́m ra trường-hợp
Anh-Quốc, với sự biểu-đồng-t́nh của Úc-Đại-Lợi (thành-viên của
khối Thịnh-Vượng Chung thuộc Liên-Hiệp Anh) đă có quyết-định gián-tiếp
công-nhận chủ-quyền Trường-Sa cho nước bảo-hộ Việt-Nam là Pháp-Quốc.
Anh-Quốc cũng phủ-nhận chủ-quyền Trung-Cộng và ngưng việc tranh-chấp,
không dành-dật chủ-quyền với Pháp-Việt v́ họ ư-thức tầm quan-trọng chiến-lược
của Trường-Sa.
Sau khi người Pháp
ban-hành sắc-lệnh đặt Trường-Sa trực-thuộc tỉnh Bà-Rịa của
Việt-Nam th́ có sự tranh-chấp Anh-Pháp về chủ-quyền quần-đảo. Ngày 23
tháng 4 năm 1930, Văn-pḥng Ngoại-Vụ của Anh nhận được điện-thư
từ Tổng-Lănh-Sự Anh tại Sài-G̣n, nội-dung đại-khái như sau: "Chính-quyền
Pháp loan-báo chủ-quyền của họ trên vùng Spratly hay Quần-Đảo Băo-Tố (tức
Trường-Sa), đây chính-xác là vùng Quần-đảo mà Anh-Quốc đă sáp-nhập vào đế-quốc
từ năm 1877. Xin cho biết chỉ-thị, nếu có để thi-hành".
Ngay sau đó, công-cuộc
thương-thuyết Anh-Pháp kéo dài tới hơn 10 năm với nhiều thủ-tục giấy
tờ phiền-phức. Chính-phủ Pháp không nhận được một quyết-định
thay đổi lập-trường nào của Anh-Quốc. Rồi Thế-chiến thứ II
xảy ra, Anh-Pháp ngưng công-việc thương-thảo.
Cho đến năm
1950, t́nh-h́nh tạm ổn, Úc-Đại-Lợi hỏi Anh-quốc quyết-định thế
nào về đường-hướng tranh-chấp chủ-quyền trên Trường-Sa. Bộ
Ngoại-Vụ Anh trả lời chính-phủ Úc bằng một văn-thư đề ngày
24 tháng 10 năm 1950 như sau:
"Trong quan-điểm
nhận-thức v́ tầm quan-trọng chiến-lược quyết-định, chúng ta không
phủ-nhận chủ-quyền Trường-Sa cho nước bảo-hộ Việt-Nam là Pháp-Quốc.
Anh-Quốc không mong chủ-quyền hải-đảo vào tay Nhật-Bản, Phi-Luật-Tân,
Trung-Hoa Quốc-gia và đặc-biệt không muốn nó để rơi vào Chính-phủ Trung-Hoa
Lục-địa."
Văn-thư kết-luận:
"Chúng ta v́ thế, không c̣n mưu-t́m một quyền-lợi nào để đeo đuổi
vấn-đề đó và đề-nghị ngưng việc tranh-chấp hiện nay."
V́ sư hệ-trọng
của tài-liệu, chúng tôi đă đăng nguyên-vẹn bản văn trên internet (http://paracels.com) để quư độc-giả tiện tham-khảo. Nhan-đề là : "The French
Annexation, and British Abandonment of Spratlies. Abandonment of Territorial Claims: The cases of Bouvet and Spratly Islands",
by Geoffrey Marston. Trong The British Yearbook of International Law 1986, LVII, các trang 337-356).
Vấn-đề Pháp-lư và Chủ-Quyền
Hoàng/ Trường Sa trong cộng-đồng quốc-tế
Mặc dù diễn-đàn
tranh căi chủ-quyền Hoàng-Sa Trường-Sa vẫn c̣n do người Trung-Hoa lấn áp trong
thập-niên 1980, nhưng những vùng ánh sáng chân-lư đă loé bùng lên, xuyên phá ngang qua bức màn
hoả mù Trung-Cộng. Trong một ít năm gần đây, t́nh-thế có vẻ như đổi
chiều và một số tài-liệu pháp-lư có tính-chất quốc-tế bắt đầu xuất-hiện.
(1) Tiếng nói Covington Burling
Vào tháng 6/ 1995, Công-ty Luật-pháp
Quốc-tế Covington Burling ở Washington DC tuyên-bố rằng Việt-Nam có chủ-quyền
khai-thác các mỏ dầu khí Thanh-Long và Vanguard. Theo các luật-gia danh tiếng của Covington
Burling, Trung-Quốc hoàn toàn đi sai trái với những nguyên-tắc cơ-bản nhất của
Quốc-tế Công-pháp. Chủ-quyền Việt-Nam dựa trên ba lư-lẽ sau:
- Theo Công-Ước Luật Biển,
Việt-Nam được hưởng chủ-quyền trong vùng biển Kinh-tế đặc-quyền
200 hải-lư tính từ bờ biển.
- Do sự kéo dài tự-nhiên của thềm
lục-địa, Việt-Nam được quyền đ̣i hỏi chủ-quyền hợp-pháp
quá giới-hạn 200 hải-lư. Toàn khu vực Thanh-Long và Vanguard hoàn-toàn nằm trên phần lục-địa
Việt-Nam.
- Theo nguyên-tắc chia cắt đồng
đều và cân xứng, một toà-án có quyền phân-định ranh giới thềm lục-địa
trên khắp Biển Đông.
Ư-kiến chuyên-môn thận-trọng
nhất cũng đánh giá Thanh-Long và Vanguard thuộc Việt-Nam. Như vậy, Trung-Cộng
không thể tự-ư nhượng quyền khai-thác dầu khí cho công ty Crestone Energy Corp. một
cách bất hợp-pháp.
(2) Lương-tâm Đài-Loan
Sự xuất-hiện
của một thứ "nhất điểm lương tâm" cũng là một điều đặc-biệt
mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây. Chính "đối-thủ" Đài-Loan đă làm
thế-giới luật-gia ngạc-nhiên v́ họ đă lên tiếng xin rút lại những đ̣i-hỏi
quá đáng về chủ-quyền trên biển lúc trước.
Trong bài báo "China's 'Historic
Waters' in the South China Sea: An Analysis From Taiwan, R.O.C.", hai Giáo-sư: Yann-huei Song của Học-viện
Academia Sinica, Taiwan và Peter Kien-hong Yu của Viện Đại học Tôn-Dật-Tiên đă phát-biểu rằng: "Kể từ nay, Đài-Loan sẽ không c̣n chấp-nhận
việc nắm chủ-quyền toàn-thể vùng "Chữ U" như là một hành-động hợp-pháp
mà chính Đài-Loan đă đ̣i hỏi trước kia.
Nói theo tính-cách chiến-lược,
người Đài-Loan không c̣n cần phải đóng vai tṛ "Bad Guy" nữa trong khi Trung-Cộng
đă muốn độc-quyền làm kẻ xấu." (Tạp-chí "The Asian Review" Vol. XII, No. 4,
Winter, 1994, các trang 83-101.)
(3) Tài hùng-biện của vị Nữ
Giáo-Sư người Pháp
Gần đây, với
một tinh-thần hiệp-sĩ hiếm có, v́ "thấy sự bất-b́nh, rút dao tương-trợ",
một vị Nữ-lưu, Thạc-sĩ Luật-học nước Pháp đă công-bố khắp
thế-giới một cuốn sách 306 trang, gồm 28 phân-đoạn và 21 đề-mục
liên-hệ bàn về chủ-quyền Hoàng-Sa Trường-Sa. Tác-phẩm
nhan-đề: "La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys", Tác-giả: Monique Chemillier-Gendreau,
xuất-bản tại Paris: Editions L'Harmattan, 1996. (Price: $42.00, Paperback).
Theo vị Nữ
Giáo-sư Luật Quốc-tế và Chính-trị-học này, cho đến nay Trung-Hoa không tranh-luận
trên chủ-quyền chiếm đóng mà lại chỉ lập đi lập lại tính-cách lịch-sử
(một cách mơ-hồ) của biển Nam-Hoa. Nếu việc Quân-đội Trung-Hoa đang
chiếm đóng Hoàng-Sa Trường-Sa đă không phải là điểm then chốt trong lư lẽ
tranh căi chủ-quyền th́ ta hăy mời mọi người xem xét tính-cách lịch-sử Trung-Hoa
đối với Biển Đông ra sao?
Trong cuốn sách
mà giọng văn rất hùng-biện, như vai tṛ của một luật-sư đứng
trước toà-án, để hết tâm-hồn bênh-vực cho lẽ phải, cứu giúp kẻ
hàm oan, bà Monique Chemillier-Gendreau tŕnh-bày mọi lư lẽ chủ-quyền lịch-sử Trung-Hoa
và lần lượt từng điểm một, mang sách sử cả Hoa, cả Việt, Pháp,
Anh ra làm bằng-cớ; hoàn-toàn bác bỏ được mọi luận-cứ mập mờ
của kẻ xâm-lăng.
Cũng qua sử
sách, với hàng chục dẫn-chứng, tác-giả đă quả quyết: Việt-Nam là nước
độc nhất đă thực-sự hành-sử chủ-quyền quốc-gia trên hai quần-đảo
từ thế-kỷ 18.
Đọc xong
cuốn sách, cả thế-giới luật-gia, sử-gia, học-giả nào cũng phải
thấy rơ rằng Trung-Quốc chưa hề bao giờ có chủ-quyền tại Hoàng-Sa và
Trường-Sa.
Thêm nữa, một
trong những đề-mục mà Thạc-sĩ Gendreau đề ra rất phù-hợp với
sự thật mà hai giáo sư Nguyễn Dư-Phủ và Hà Mai-Phương đă khám-phá ra trước
đây là giới-hạn Nam-Hải của Trung-Quốc xưa chỉ đến ngang đảo
Hải-Nam.
Từ Pháp cuốn "La Souveraineté sur les
Archipels Paracels et Spratleys"đă phổ-biến sang tới Hoa-kỳ là nơi Trung-Cộng dồn
nỗ-lực nhiều nhất trong chiến-thuật "Biển Sách". Ảnh-hưởng của
nó chắc chắn thật to lớn, có khả-năng hoá-giải phần lớn các lời
lẽ ngụy-biện Trung-Hoa. B́nh-luận-gia kiêm luật-gia Steve Carlson của Đại-học
Yale, sau khi đọc xong đă xác-nhận rằng sự ra đời của cuốn sách này
làm mọi người có được cái nh́n rơ ràng vào sự thật bên trong của vấn-đề
sôi bỏng là chủ-quyền trên Biển Đông. Chúng tôi xin chép lại câu kết-luận
bài điểm sách của luật-gia Steve Carlson như sau đây: " This book competently and coherently
offers key insights into a volatile and contemporary sovereignty dispute boiling in the South China Sea." (The Yale Journal
of international Law, Winter 1997, Vol. 22: 239-241.)
Luận-án Lịch-Sử của Tiến-sĩ
Nguyễn Nhă
Ngày 20-1-1974, một ngày sau cuộc Hải-Chiến
với Hải-Quân Việt-Nam, Trung-Cộng xâm-lăng Hoàng-Sa.
Ngày 20-1-1975, Nguyễn Nhă là người thanh niên
từng đóng góp cho Tập san Sử Địa 29: "Đặc Khảo Về Hoàng Sa và Trường
Sa" lại tổ chức một triển lăm tại Thư viện quốc gia. Để kỷ
niệm một năm ngày biến cố Hoàng Sa, Ông Nhă trưng bày tài liệu, h́nh ảnh thể
hiện chủ quyền Hoàng Sa rơ rệt là của Việt Nam.
Và đến 18-1-2003,
29 năm ngày biến cố Hoàng Sa, chàng thanh niên ngày xưa tŕnh trước hội đồng
bảo vệ luận án tiến sĩ tại Trường đại học KHXH&NV đề
tài "Quá tŕnh xác lập chủ quyền của VN tại quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa". "Với luận án tiến sĩ này, tôi thách thức các nhà nghiên cứu các nước, kể
cả Trung Quốc (TQ), có một đề tài xác lập chủ quyền Hoàng Sa mang tính khoa
học được như tôi", người đó là Nguyễn Nhă.
“Với tôi, một nhà nghiên cứu - ông Nhă
nói - tôi bám sát theo tư liệu lịch sử. Việc xác lập chủ quyền là của
Nhà nước chứ không phải của dân. Do vậy, phải sử dụng tư liệu
của chính quyền. Mà ở ḿnh th́ tư liệu đáng tin cậy có nhiều. Xưa nhất,
vào cuối thế kỷ 17 đă có tập bản đồ Toản nam tứ chí lộ đồ
thư hay Toản tập An Nam lô của Đỗ Bá Công Đạo có vẽ và ghi chú về
“băi cát vàng”, tức Hoàng Sa. Tiếp đó là Phủ biên tạp lục của Lê Quư
Đôn mô tả chi tiết về hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải
minh chứng sự xác lập và bảo vệ chủ quyền của VN trên quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa. Sang đến thời nhà Nguyễn th́ một hệ thống biên
niên sử và địa dư chí của Quốc sử quán, sách hội điển, châu bản
của nội các triều đ́nh nhà Nguyễn đă ghi chép sự hoạt động của
đội thủy binh Hoàng Sa một cách rơ ràng, thể hiện sự xác lập cũng như
bảo vệ chủ quyền của Nhà nước VN trên quần đảo Hoàng Sa cũng
như Trường Sa. Trong đó có các bộ sử sách: Châu bản triều Nguyễn, Hội
điển, Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam
thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống chí, Quốc triều chính biên toát
yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ...”.
“Ở VN
có một điều đặc biệt là tất cả các tài liệu đều là tài liệu
công. Vua nói ǵ, bộ công nói ǵ, quan chức nói ǵ về chủ quyền Hoàng Sa, tất cả
đều được sử gia chép lại. Chứ TQ th́ chỉ suy diễn thôi. TQ không
có tài liệu nào của chính quyền TQ nói về chủ quyền của TQ đối với
Hoàng Sa cả. V́ tên gọi Tây Sa cũng như Nam Sa là tên gọi sau này, bắt đầu từ
1909 mới có. Năm 1909 TQ đi thám sát mới đặt tên quần đảo Hoàng Sa là Tây
Sa v́ cho rằng đây là đảo vô chủ (res nullius)”.
Nghiên cứu Thực-địa đội Hoàng Sa
Giống như Tiến-sĩ Nguyễn Nhă, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường
Đại Học Quốc-Gia Hà Nội, cũng cho rằng việc “Nghiên cứu
Thực-địa” la` quan-trọng.
Khi nghiên cứu về Hoàng Sa, Trường Sa không
thể nào không tới Lư Sơn - nơi được biết là nguồn cung cấp chủ
yếu dân binh cho các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, những đội được cử
ra hai quần đảo này.
Ông Ngọc nói: Tôi ra
Lư Sơn hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1995 và đă khảo sát kỹ càng. Năm
2001 trở lại lần nữa . Dù có ra nước ngoài nhiều lần v́ vấn đề
này nhưng phải nói rằng những chuyến đi Lư Sơn mới là những chuyến
đi quan trọng nhất. Nó quan trọng v́ tư liệu về lịch sử chủ quyền
của VN ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các văn bản của nhà nước
hay là được triển khai bởi các nhà nước VN trước đây (được
ghi chú trong các sách và lưu trữ trong các kho lữu trữ trung ương) về những
chuyến đi Hoàng Sa do nhà vua trực tiếp chỉ đạo. Tức là người đứng
đầu cao nhất của nhà nước giao trách nhiệm, thế là thể hiện chủ
quyền chứ c̣n ǵ nữa! Nhưng sinh động hơn và hết sức quư giá là những
quyết định của vua, của Nhà nước đă được thực hiện
một cách đầy đủ, triệt để và hết sức tự giác bởi chính
những người dân thường đảo Lư Sơn.
Đấu tranh trên trường chữ nghĩa
Việc đấu
tranh trên trường chữ nghĩa thật là cần-thiết.
Giáo Sư Nguyễn Quang Ngọc có lần nói rằng:
Kinh nghiệm cho thấy các học giả TQ rất sợ thủ thuật bịp bợm của
họ bị đưa ra ánh sáng. Năm 1996, cuốn "Chủ quyền trên quần đảo
Paracels và Spratlys" của bà Monique Chemilier Gendreau, một luật sư, giáo sư có tên tuổi
ở Pháp và nước ngoài ra mắt bạn đọc đă làm cho các học giả TQ hoảng
hốt và khẩn khoản mời bà sang Bắc Kinh nói là để cung cấp thêm tài liệu.
Bà đă đến Bắc Kinh và đối mặt với mấy chục học giả TQ.
Bà cho biết, học giả TQ không giải đáp được những vấn đề
do bà đặt ra, không đưa ra được bất kỳ bằng chứng nào có sức
thuyết phục.
Nhân cuộc phỏng-vấn, Ông nói đến một
cuốn sách chưa được xuất bản của một người quá cố, một
chuyên gia về Hoàng Sa- Trường Sa. Đó là công tŕnh nghiên cứu của ông Phạm Kim Hùng,
nguyên chuyên viên Bộ Ngoại giao.
… TQ có một học giả lớn tiếng
nhất về việc khẳng định chủ quyền quốc gia của họ ở
Hoàng Sa, đó là ông Hàn Chấn Hoa. Ông ta có một cuốn sách gọi là Ngă quốc Nam hải
chư đảo (tổng hợp các nguồn sử liệu về các đảo ở biển
Nam). Thực ra TQ đă làm việc này từ lâu, nhưng có thể nói, đến Hàn Chấn
Hoa mới tổng kết lại một cách có hệ thống, cho nên nguy hiểm ở chỗ
là sau khi "cái được gọi là công tŕnh nghiên cứu" của Hàn Trấn Hoa ra đời
th́ rất nhiều người tin là chủ quyền của TQ là hiển nhiên. Trong đấu
tranh khẳng định chủ quyền của ta th́ đấu tranh phản bác cuốn sách
của Hàn Chấn Hoa là một trong những nội dung hết sức quan trọng. Phạm
Kim Hùng là một chuyên gia mấy chục năm nghiên cứu về Hoàng Sa, đă viết một
cuốn sách để phản bác lại Hàn Chấn Hoa, bóc trần những luận điểm
sai trái, để mọi người biết rằng Hàn Chấn Hoa chỉ lợi dụng
danh nghĩa khoa học để che đậy, xuyên tạc sự thật. Tiếc rằng
cuốn sách chưa kịp in ông đă qua đời.
Giáo Sư Nguyễn Quang Ngọc hiện lưu-trữ
bản thảo cuốn sách của của ông Phạm Kim Hùng. Chúng ta hy-vọng ông Ngọc có
điều kiện để xuất bản. Đây cũng sẽ là một trong những
tài liệu rất hữu ích.
Những đ̣n chí-mạng trên mạng
lưới toàn-cầu Internet
Vài ba thập-niên trước,
khi bước vào thư-viện t́m tài-liệu chủ-quyền trên Biển Đông, người
ta chỉ thấy toàn là sách của Trung-Hoa, hay của những tác-giả hải-ngoại gốc
Trung-Hoa. Văn-đàn pháp-lư v́ thế coi như chỉ có sự độc-diễn của một
phía với các tài-liệu hư hư, thực thực để Trung-Hoa tác-tạo hỏa-mù
như phần trên của bài viết đă đề-cập.
Thế nhưng, độc-hại
của lớp khói không được bền lâu v́ là đồ giả-tạo nên dễ bị
tan-biến rất nhanh. Trong thập-niên 1990 qua đầu thế-kỷ 21, mọi sự thực
về chủ-quyền hải-phận Biển Đông đă được tŕnh-bày rơ rệt
hơn xưa.
Rồi mới đây,
những đ̣n chí-tử cho Trung-Cộng xuất-hiện trên mạng lưới điện-toán
toàn-cầu Internet. Rất nhiều Websites được thành-lập cung-cấp đầy
đủ mọi dữ-kiện pháp-lư cũng như tin-tức hoạt-động quân-sự
cũng như chính-trị liên-hệ đến Biển-Đông.
Thế-giới văn-minh
siết bao súc-động khi được tin hạm-đội của họ nhiều lần
tiến xuống xâm-lăng Trường-Sa. Rồi Trung-Cộng mập mờ lấy danh-nghĩa
đưa phái-đoàn khoa-học Liên-hiệp-quốc đi khảo-sát, để bất-thần
tiến-chiếm Trường-Sa, bắn ch́m nhiều chiến-hạm Việt-Nam Cộng-Sản.
Sau này Trung-Cộng c̣n làm kiểu "mèo khóc chuột", tuyên-bố rất tiếc là biến-cố
đă xảy ra. Liên-hiệp-quốc cũng lên tiếng thanh-minh không có công-tác khảo-sát nào
ở Trường-Sa. (South China Sea Treacherous Shoals, tạp-chí Far Eastern Economic Review, 13 Aug 92: 14-17.).
Tất cả diễn-tiến như vậy với đầy đủ chi-tiết loan ra
rất nhanh nhờ hệ-thống mạng-lưới điện-toán toàn cầu.
Có các trang Web nói lên những
sự thực pháp-lư khách-quan nhưng lại tác-dụng như những "cái xương lớn
mắc trong cổ họng" của kẻ Xâm-lược. Sách báo xem xong th́ được gập
lại bỏ vào tủ, nhưng các Websites lúc nào cũng hiện-diện cả ngày đêm trên
màn ảnh, kéo dài nhiều năm tháng, lại được thông-tin tức-khắc đi khắp
hoàn-cầu. Đặc biệt là khi bài vở được tŕnh-bày khéo léo, những tư-tưởng
hợp-lư rất dễ thuyết-phục mọi người. Những lời ngụy- biện
phơi-bày thường-trực trên mạng lưới một thời-gian sau sẽ không c̣n
che dấu được và mặt trái xấu xa bị lộ ra ngoài dễ dàng.
Hoàng-Sa, Trường-sa
và Biển Đông là của Việt-Nam. Trong khi người Việt-nam chúng ta rất ít chú-tâm
xây-dựng các trang Web để tŕnh-bày những lư-lẽ chủ-quyền của dân-tộc
ḿnh th́ rất đông các nhà thức-giả ngoại-quốc lại quan-tâm đến việc
sử-dụng phương-tiện này để thông-tin và b́nh-luận về t́nh-trạng Biển
Đông. Họ rất e ngại cho sự bất ổn trong vùng.
Ư-thức được
rằng nếu muốn thế-giới được sống trong ḥa-b́nh, con người
thuộc mọi chủng-tộc phải cổ vơ ḥa-b́nh, khuyến-khích nhau bảo-vệ luật-pháp
và răn đe những thành-phần hiếu-chiến. Hiện nay hầu hết các Đại-Học
Luật-Khoa, các Cơ-quan Quốc-tế về Văn-hóa, các Tổ-hợp Luật-pháp đều
có Websites để thực-thi những nguyện-vọng tương-tự.
Chúng ta cần cảm
ơn những người có ḷng như vậy. Khi say mê đọc những bài viết.trên
lưới, chúng tôi hiểu ra những lợi điểm to lớn của Internet. Những
bức màn tre bưng-bít, những bức màn sắt tù đày và không lâu nữa, những bức
tường lửa lần lượt theo nhau bị sụp đổ. Người Tàu nào
mà chả sửng sốt khi xem thấy những câu mở đầu cho một website về
luật-pháp mà chúng tôi xin đăng nguyên-văn như sau:
Questions about
History ?
Here are several comments on the issue of South
China Sea:
(1) By the law of sea, merely discovery of an island
does not guarantee a sovereignty.
(2) The first time China sent its stationed troop
to Nansha Islands (Taiping) is 1910 by the navy minister Li Zhun. Due to the Xin Hai Revolution of 1911, they starved there
soon.
(3) The sovereignty over one island does not guarantee
the sovereignty over uninhabited surrounding islands unless the military takes regular patrol around them.
(4) The sovereignty over one island grants China
the territory claim 12 nautical miles around it, not the entire sea.
(5) Zeng Mu An Sha is 20 meters below sea-level.
It can not be a basis for a territory claim. Its original name is James, after its discoverer. Zeng Mu was made up arbitarily
by the ROC government.
(6) The PRC declared in 50's (signed by Zhou En
Lai), that Yellow Sea and Bo Hai are China's inner seas, East Sea (including the Taiwan Strait) and South Sea are open waters.
(7) China has been asked by foreign countries the
historical or legal background for Chinese maps about the South Sea. The PRC foreign ministry has not been able to give an
answer.
Trung-hoa rất khó mà đối-đáp
lại được những lư-lẽ danh thép kể trên. Qua nhiều năm dài, trang Web vẫn
hiển-hiện trên lưới, những ḍng chữ gợi sự hồI-tâm chuyển-ư vẫn
c̣n đó như thách-thức, như chờ đợi mà vẫn không có hồi-đáp thỏa
đáng. Chỉ ngượng ngùng thôi, những người Tàu hung-hăng nhất, thích căi lư
nhất cũng bớt hung-hăng, giảm tính căi bướng đi ít nhiều.
Khôn không qua lẽ, khỏe
chẳng qua lời. Đó là lư-do người ta có thể hiểu tại-sao Trung-Cộng phải
tạm ngưng không giám trâng-tráo lấn chiếm thêm Hải-đảo cũng như Hải-phận
của các nước láng giềng.
Luật Biển LHQ, một ư-thức
mới về trật-tự trên biển
Luật Biển Liên-Hiệp-Quốc
ra đời là một biến-cố trọng-đại. V́ ư-thức được sự
cần-thiết phải có một nền trật-tự chung trên đại-dương cho
nhân-loại, nhiều quốc-gia đă đồng-ư cùng nhau đưa ra một dự-án quản-trị
biển cả toàn-cầu. Sau 15 năm cố gắng làm việc của nhiều cơ-quan
quốc-tế, gặp nhiều khó khăn về thương-thuyết, dự-thảo Luật
Biển của Liên-hiệp-Quốc sau ba lần đại-hội, được ra đời
vào năm 1982.
Trong niềm hy-vọng
những tốt đẹp trên biển cả sẽ đến với nhân-loại, các luật-gia
John R. Stevenson và Bernard H. Oxman đă thở phào nhẹ nhơm khi viết rằng: "Tất cả
những cố-gắng trước đây trong suốt cả thế-kỷ để đưa
toàn-thể thế-giới ngồi lại với nhau trong một sự đồng-ư vững-chắc
về biển cả đă tan vỡ. Thỏa-ước Liên-hiệp-Quốc về Luật
Biển là điều cận-kề nhất mà loài người chúng ta có thể tiến đến
với nhau. Mục-tiêu đó nay đang ở trong tầm tay". (The Future of the United Nations Convention
on the Law of the Sea, trong The American Journal of International Law, Vol. 88, July 1994: 488-499.)
Thỏa-ước "United
Nations Convention on the Law of Sea", viết tắt là UNCLOS hay LOS Convention, công-bố ngày 10-12-1982 tại
Montego Bay, Jamaica đă được 159 quốc-gia kư-nhận (signatures) và như tiên-liệu,
đă có đủ 60 quốc-gia duyệt-y (ratification.) Kể từ ngày 16-11-1994, thỏa-ước
UNCLOS trở thành luật và được mang ra thi-hành.
Nội-dung của thỏa-ước
rất lư-tưởng như cho rằng "Biển cả là tài-sản chung của Nhân-Loại".
Sự thi-hành Luật Biển lại dựa hoàn-toàn trên tinh-thần thiện-chí của mọi
quốc-gia trên thế-giới. Có nhiều điều-luật cần-thiết c̣n thiếu
sót. Một số điều chưa được tŕnh-bày rơ ràng hay không phù-hợp với
thực-tế sẽ dần dần được các cơ-quan luật-pháp nghiên-cứu, đề-nghị
điền-khuyết hay tu-chỉnh như đă từng được làm từ mấy chục
năm qua ...
Các nước Đông-Nam-Á
quanh vùng Biển Đông đều là hội-viên LHQ., đă cùng kư-kết thi-hành Luật Biển.
Trừ ra nước Tàu từ xưa vẫn ngoan-cố, nay lại chưa chấp-nhận
việc thi-hành. Để cho t́nh-trạng thêm phần căng thẳng, Trung-Cộng ban-hành Luật
Lănh-hải 1992 riêng cho họ. Luật này ngăn chặn việc thi-hành Luật Biển LHQ
về chủ-quyền hải-phận của những quốc-gia duyên-hải bằng cách tuyên-cáo
một cách trâng tráo : Biển Đông là nội-hải hay lănh-hải Trung-Hoa.
Tuy vậy, đa-số
giới luật-gia tin-tưởng rằng nhờ số lượng "đa-số áp-đảo"
các quốc-gia kư-nhận, rồi ra Luật Biển sẽ được toàn-thể cộng-đồng
nhân-loại tôn-trọng và thi-hành hầu mang lại ḥa-b́nh trên biển.
Yếu-tố Pháp-lư chính-yếu: Luật
Biển
Theo Luật sư Nguyễn
Hữu Thống: Các tài liệu sách báo, họa đồ, các chứng-tích lịch sử hay
nhân chứng, v.v..., phải có tính cách khách quan xác thực. Dầu sao các tài liệu này không có
giá trị bằng các yếu tố khoa học như địa lư, địa h́nh, địa
chất, sinh thực học, khí hậu, v.v... Nhất là nó không thể đi ngược lại
các điều khoản của Công-Ước về Luật Biển và các nguyên tắc thành
văn của Luật Tục Lệ Quốc Tế do các ṭa án quốc tế áp dụng từ
nhiều thập kỷ nay.
Tinh thần của Luật
Biển là trọng pháp (law) và công-bằng (equity). Phương thức giải quyết tranh
chấp theo Luật Biển là điều đ́nh, ḥa giải, thỏa hiệp, sau mới nhờ
đến ṭa án trọng-tài hay ṭa án quốc tế. (Xin xem bài "Vấn-đề Hoàng-Sa - Trường-Sa".
Luật sư Nguyễn Hữu Thống. Báo Đi Tới, Số Đặc-Biệt Biển
Đông, Canada, 1999).
Hai luật-gia Mark J. Valencia
và Jon M. Van Dyke, sau khi bàn-luận đến những lợi-điểm của Việt-Nam trong
việc kư-nhận thi-hành Luật Biển LHQ., cũng khuyến-cáo Việt-Nam nên tu-chỉnh
lănh-hải lịch-sử (historic waters) và thu bớt phần nội-hải bằng cách duyệt
lại các đường căn-bản baselines. (Vietnam's National Interests and the Law of the Sea, trong
Ocean Development and International Law, Vol.25, Apr/Jun 1994: 217-250.)
Khối-lượng
chất xám của chúng ta ở hải-ngoại rất đáng kể, nhưng h́nh như địa-bàn
phục-vụ của trí-thức Việt-Nam đă có một khoảng trống vắng quan-trọng
về Luật Biển. Cho đến nay số lượng sách vở tŕnh-bày các lư lẽ chủ-quyền
hải-đảo của chúng ta tuy thật là hợp lư, rơ ràng; nhưng c̣n quá ít ỏi. V́ chính-nghiă
ta ngời sáng, chúng tôi đặt hy-vọng rằng một khi thế-hệ các luật-gia
trẻ ra tay, tiếng nói của chúng ta về chủ-quyền Việt-Nam trên Biển Đông
sẽ có ảnh-hưởng mạnh mẽ hơn. Chỉ cần chừng vài chục thí-sinh
Việt-Nam nộp luận-án Tiến-Sĩ luật-khoa về "pháp-lư hải-phận” là
cán cân dư-luận thế-giới văn-minh lập-tức nghiêng về phía Việt-Nam. Lư-lẽ
pháp-lư đă chính-xác, tiếng nói sẽ vang vọng rất xa!
Lănh-thổ và lănh-hải.
Học địa-lư,
chúng ta biết rằng diện-tích lănh-thổ nước Việt-Nam đo được
329,600 km2. Ngoài lănh-thổ đó, một khu-vực trên biển từ bờ trở ra khơi
12 hải-lư (hl) đă được nhận là lănh-hải (territorial waters.) Chủ-quyền
quốc-gia trên lănh-hải giống như chủ-quyền trên lănh-thổ. Vào năm 1964, chính-quyền
cộng-sản Việt-Nam tuyên-bố lănh-hải 12 hl.
Ngày nay, chúng ta cần
biết thêm về một vùng hải-phận rộng lớn hơn nữa ở ngoài biển
thuộc chủ-quyền khai-thác của dân Việt-Nam ta: Khu-vực Biển Kinh-tế Đặc-quyền
200 hải-lư mà danh-từ Luật Biển gọi là Exclusive Economic Zone- EEZ.
Vào ngày 12-5-1977, Chính-quyền
CHXHCN Việt-Nam ra tuyên-cáo những hải-phận như sau:
- 12 hl lănh-hải
- 12 hl vùng cận-hải phía ngoài lănh-hải
- 200 hl vùng biển kinh-tế tính từ
ngoài đường căn-bản lănh-hải (200NM from territorial waters base line.)
Website của Đảng
Cộng Sản Việt Nam đă ghi: “Theo Công ước của Liên hợp quốc về
Luật Biển năm 1982 th́ nước Việt Nam ngày nay không chỉ có phần lục địa
nhỏ hẹp “h́nh chữ S'' mà c̣n có cả vùng biển rộng lớn gần l triệu
km2 gấp 3 lần diện tích đất liền.” http://www.cpv.org.vn/details.asp?topic=67&subtopic=166&leader_topic=278&id=BT1850437252.
Việt-Nam là quốc-gia
có đường duyên-hải khá dài, tỷ-lệ bờ biển/ diện-tích lănh-thổ hơn
1 phần trăm. Trong khi đó, Trung-Cộng có rất ít bờ biển, tỷ-lệ chỉ
đạt tới 1.5 phần ngàn mà thôi.
Theo Luật-sư Mark
J. Valencia, Việt-Nam ước-lượng vùng EEZ rộng tới 210,600 dậm vuông (square
nautical-mile) trải dài ra trên Biển Đông. Diện-tích này tính ra 722,338 km2, tức rộng
hơn hai lần đất liền, (225% so với lănh-thổ.)
Theo bảng liệt-kê
cung-cấp bởi vị Luật-sư này, Việt-Nam có chiều dài bờ biển 2,828 hải-lư
(tức 5,237 km, hải-phận EEZ rộng 210,600 hl vuông, không thua Trung-Cộng bao nhiêu.
Dự-thảo Luật
Biển Liên-hiệp-Quốc (United Nations Convention on the Law of the Sea - UNCLOS hay LOSC) quy-định
rằng hải-phận dành cho quốc-gia duyên hải quản-trị và hải-đảo cũng
có những hải-phận như đất liền. Tại Biển Đông, nước nào
có chủ-quyền trên các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa sẽ được sở-hữu
những tài-nguyên trong các hải-phận liên-hệ. Những vùng biển như vậy rất
to lớn, đặc-biệt lại nằm trong khu-vực có nhiều tiềm-năng dầu-khí.
Đối với Việt-Nam,
đặt giả-sử nếu ta kiểm-soát trọn-vẹn cả Hoàng-Sa lẫn Trường-Sa,
hải-phận khai-thác kinh-tế (EEZ) của quốc-gia ta sẽ lớn gấp 4, 5 lần
lănh-thổ hiện-thời trong lục-địa. Tài-nguyên dưới biển nếu khai-thác
hết, có lẽ nhiều hơn sản-lượng thu-đạt trên đất liền.
Suy-luận theo t́nh-trạng
hiện nay, cả lư lẫn t́nh, Việt-Nam không thể nào đ̣i hỏi quyền kiểm-soát
toàn-thể tất cả Hoàng-Sa lẫn Trường-Sa. Tuy vậy nếu mọi phe-phái tôn-trọng
Luật Biển, nước ta cũng sẽ được thụ-hưởng tài-sản
một vùng Biển Đông rộng lớn, với những nguồn tài-nguyên phong-phú rất
đáng kể. Theo Giáo-Sư Lê-Chỉ-Thảo và các nhà Địa-Lư-Học khác, Việt-Nam
có tới một triệu cây số vuông mặt biển thuộc đặc-quyền kinh-tế.
Dưới đây, chúng
tôi xin nêu ra một số ưu-điểm của Việt-Nam trong tinh-thần tôn-trọng Luật
Biển.
Hoàng-Sa là chỗ nối dài của Duyên-hải
miền Trung
Luật Biển Liên-hiệp-quốc
có điều-khoản quan-trọng bàn về thềm lục-địa, đặc-biệt
dành ưu-thế cho các quốc-gia có đáy biển thoai-thoải nối dài ra khơi.
Sách Địa-lư Việt-Nam
thường ghi-nhận một cách tổng quát là biển miền Trung sâu, bờ biển dựng
đứng. Nếu chỉ đọc và hiểu sơ sài như vậy th́ thật là tai-hại
v́ có người đă từng nghĩ rằng Hoàng-Sa không liên-hệ ǵ tới thềm lục-địa
Việt-Nam.
Sự thực, nhận-xét
này chỉ có nghĩa tương-đối khi biển miền Trung được các tác-giả
mang ra so-sánh với biển miền Bắc và biển miền Nam mà thôi. Đi sâu vào chi-tiết,
chúng ta thấy chỉ có một đoạn ngắn bờ biển miền Trung khá dốc tại
B́nh-Định, Phú-Yên và Khánh-Hoà. Suốt từ Thanh-Hoá chạy qua các tỉnh Nghệ-An, Hà-Tĩnh,
Quảng-B́nh, Quảng-Trị, Thừa-Thiên, Quảng-Nam cho tới Quảng-Ngăi; biển rất
nông cạn. T́nh-trạng đáy biển chạy thoai-thoải ra ngoài khơi, gần tương-tự
như tại vịnh Bắc-Việt. Xa xa hơn về phía Nam, kể từ Mũi Dinh Ninh-Thuận
qua B́nh-Thuận, đáy biển trở lại nông cạn hơn và thoai-thoải nối dài ra
phiá Trường-Sa.
Nếu lại quan-sát
địa-h́nh đáy biển, người ta thấy quần-đảo Hoàng-Sa nằm sát với
thềm lục-địa của Việt-Nam. Tuy toàn thể khu-vực quần-đảo nổi
cao hơn vùng biển vây quanh nó, nhưng nền đất Hoàng-Sa được nối thẳng
vào thềm lục-địa Việt-Nam như là qua một cái cửa ngơ thông vào vùng cù-lao Ré
và bờ biển Quảng-Ngăi. Hành-lang đó khá nông, chỗ sâu nhất chỉ chừng 500 m.
Trong khi đó, đáy biển đột ngột lại sụt xuống về phía Trung-Hoa,
độ sâu lên tới hàng ngàn mét, rồi 2000m, 3000m hay hơn nữa.
Những hải-đồ
có ghi độ sâu đáy biển chứng-minh rơ rệt quần-đảo Hoàng-Sa là phần
nối dài của lục-địa Việt-Nam. Đường đồng-thâm (hay đẳng
sâu, iso-depth contour) 1000 thước bao kín các vùng về phía Bắc và Đông, trong khi các đường
nông cạn lại mở rộng qua phía Việt-Nam theo chiều hướng Tây Tây Nam.
Nói một cách khác, nếu
mực nước biển hạ xuống chừng 600 tới 700 m th́ Hoàng-Sa dính vào Việt-Nam
như một khối đất liền và xa cách hẳn Trung-Hoa bằng một vùng biển
nước sâu tới cả 1,000m.
Qua thế-kỷ 21 mới này, Trung-Cộng
đang có âm-mưu thâm-độc ǵ?
Sau vụ biên-giới trên đất liền, chắc-chắn Trung-Cộng sẽ tiếp-tục
âm-mưu thâm-độc xâm-lăng hải-phận Việt-Nam.
Trung-Cộng đă chia
cho Cộng-sản Hà-Nội 53% Vịnh Bắc-Việt (tức là Việt-Nam bị thiệt
9%, khoảng 11.000 km2). Đường phân ranh không phải là đường trung-tuyến
theo Luật Biển Liên-Hiệp-Quốc (tức giữa hai đường lănh-hải 12 hải-lư).
Bắc-kinh buộc Hà-Nội phải công-nhận đảo Hải-Nam như là một lục-địa.
Trong khi đó, không những họ chẳng chịu kể Bạch-long-Vĩ của Việt-Nam
là một ḥn đảo mà c̣n hạ giá-trị đảo này xuống cho ngang hàng với một
ḥn đá ngầm, chỉ có hải-phận nhỏ bé 3 hải-lư cho đặc quyền kinh-tế.
Ba ngàn đảo Việt-Nam hoàn-toàn không tính cho vùng lănh-hải. Ngoài ra, Trung-Cộng c̣n cố
ư ngăn-chặn không cho Việt-Nam được đưa ra một yếu-tố thật
quan-trọng trong Luật Biển Liên-Hiệp-Quốc là sự nối-tiếp địa-h́nh
của đất liền chạy dài ra ngoài biển.
Theo các chuyên-gia Luật
Biển, Việt-Nam có đầy đủ yếu-tố căn-bản như vậy để
hưởng đặc-quyền chiều rộng thềm lục-địa và hải-phận
kinh-tế mở rộng cho tới 350 hải-lư (Vietnam's National Interests and the Law of the Sea, Mark
J. Valencia & Jon van Dyke, trong Ocean Development and International Law, Apr/ Jun 1994: 228-229.)
Việc phân chia hải-phận
Vịnh Bắc-Việt cũng như việc xác-định chủ-quyền Quốc-gia chúng
ta trong những vùng đất, vùng biển nào khác đều quan-trọng. Một chính-quyền
chân-chính phải quyết-tâm bảo-vệ lănh-thổ.
Công-pháp Quốc-Tế
đứng về phía Việt-Nam. Trong tinh-thần thượng-tôn luật-pháp, ư-thức của
nhân-loại đang gia-tăng về một trật-tự cần-thiết trên biển; thời-gian
hiển-nhiên cũng đứng về phía dân-tộc chúng ta. Điều cần-thiết lúc
này là chúng ta phải làm sáng-tỏ chính-nghiă chủ-quyền của chúng ta cùng cộng-đồng
thế-giới. Nếu v́ đối-phương hiếp-đáp, áp-bức trong bàn hội-nghị
mà cuộc điều-giải bất- thành, Việt-Nam cần đưa vụ lấn-áp Hải-phận
vịnh Bắc-Việt cũng như những tranh-chấp các quần-đảo Hoàng Sa Trường
Sa ra trước Ṭa-Án Quốc-Tế.
Sau nữa, toàn dân trong
cũng như ngoài nước hy-vọng rằng nhà cầm-quyền Cộng-Sản Việt-Nam
không nên muối mặt kư-kết thêm hiệp-định bất b́nh-đẳng một lần
nữa. Dù chót đă hứa với Bắc-Kinh sẽ thoả-thuận về những tranh-chấp
Biển Đông trong những năm 1990- 2000, Cộng-sản Hà-Nội nên hồi-tâm lại,
đặt quyền-lợi quốc-gia trên hết. Hăy phản công lại mới được!
Hoàng-Sa và việc tranh-chấp hải-phận
Quần-đảo Hoàng-Sa
đă bị Trung-Cộng cưỡng-chiếm, nhưng Hoàng-Sa chưa phải hoàn-toàn mất
hẳn nếu như người Việt-Nam chúng ta c̣n ư-chí phục-hoàn đất cũ, không
chịu buông xuôi. Biến-cố Hoàng-Sa 1974 cần được ngàn đời nhắc nhở
để nung nấu ḷng yêu nước của con dân Hồng-Lạc chống kẻ thù truyền-kiếp
phương Bắc.
V́ Tiên Lễ Hậu Binh,
Việt-Nam sẵn sàng thương-thuyết trên căn-bản Công-pháp Quốc-tế. Là một
dân-tộc kiên-tŕ sau cả ngàn năm Bắc-thuộc mà c̣n dành lại được quyền
tự-chủ, chúng ta không quản-ngại ǵ trong kế-sách trăm năm thu-hồi lănh-thổ
và hải-phận đă mất. Tâm-lư của kẻ xâm-lược là vội vă đánh nhanh,
chiếm lẹ. Mục-đích của kẻ thực-dân là khai-thác tài-nguyên, nên ước mong
của Trung-Công là cố gắng đẩy mạnh cuộc thương-thuyết cho hoàn-tất
sớm sủa để hưởng lợi. Như đă từng đề-cập ở
trên, thời-gian là yếu-tố đứng về phía chúng ta. Không v́ ảo-tưởng miếng
mồi thơm ngon mà sa vào cái bẫy sập của kẻ thù.
Một khi hạ quyết-tâm,
không những ta đă bền chí trường-kỳ tranh-đấu mà c̣n làm đối-phương
không thể nào ăn ngon ngủ yên, lúc nào cũng sợ bị quấy-phá. Như vậy, chúng
làm sao an-tâm trong việc khai-thác tài-nguyên cho được. Chúng ta không tài giỏi đă để
mất Hoàng-Sa, nhưng hăy bảo nhau biến Hoàng-Sa thành một miếng xương lớn
móc trong cổ họng con hạm Trung-Hoa, khiến nó một ngày nào đó không nuốt trôi đành
ḷng nhả ra mà thôi.
Trời cao có mắt,
một khi nước Tàu đại-loạn, Việt-Nam hăy chờ đợi để lấy
lại mảnh đất của ḿnh đă mất. Quá-khứ cho biết suốt ḍng lịch-sử,
nước Trung-Hoa ít khi được hưởng thái-b́nh lâu dài. Quốc-gia ta cần nghiên-cứu
một kế-sách tái-chiếm này cho hoàn-bị. Những vị anh-hùng trong tương-lai sẽ
hiên-ngang trở lại Hoàng sa. Sẵn có địa-lợi v́ Hoàng-Sa gần sát với quân-cảng
Việt hơn Tàu, một khi thiên-thời và nhân-hoà hợp nhất, việc này tưởng
như khó khăn mà sẽ đương-nhiên xảy ra .
Thượng-sách là như
vậy, nhưng theo suy-luận của một số người thông-thạo Luật Biển
th́ Việt-Nam cũng không thiệt-hại hay mất mát nhiều về hải-phận (cho
dù Trung-Cộng xâm-chiếm mất Hoàng-Sa) nếu như các phe thương-thuyết đều
tôn-trọng Luật Biển LHQ. Những ưu-thế của Việt-Nam đă được
tŕnh-bày ở trên, riêng Hoàng-Sa nằm trong một số trường-hợp đặc-biệt
như sau:
- Việc chiếm-đóng bằng bạo-lực
không đưa đến chủ-quyền.
- Hoàng-Sa gồm nhiều đảo
nhỏ, không có cư-dân, không tự-túc kinh-tế nên không được hưởng quy-chế
hải-phận đặc-quyền kinh-tế.
- Nền đất quần-đảo
Hoàng-Sa nằm trên thềm lục-địa, lại đặc-biệt nối liền với
Cù-lao Ré và tỉnh Quảng-Ngăi.
- Yếu-tố thời-gian rơ rệt
đang giúp cho Việt-Nam một thế đứng vững mạnh hơn trên trường
quốc-tế công-pháp. Trong khi đó thế-giới luật-gia lại đang gia-tăng áp-lưc
nặng nề lên phía Trung-Cộng. Hoả-mù tuyên-truyền của họ trong những thập-niên
1970, 1980 nay đă đang tan ră thành từng mảng. Chủ-quyền Việt-Nam trên Hoàng-Sa Trường-Sa
thực-sự là một chính-nghiă sáng ngời.
Chính-nghiă tất thắng
Như Kim-cương
không bao giờ hư nát, như Vàng không sợ lửa; chủ-quyền Việt-Nam trên Hoàng-Sa
Trường-Sa là một chính-nghiă sáng ngời.
Lúc trước, chiến-thuật
"Biển Người" của Trung-Cộng một hồi đă gây kinh-hoảng cho loài người.
Ngày nay, thời-đại "màu đỏ máu" của Cộng-Sản bao trùm 1/3 nhân-loại thực-sự
qua rồi. Đă đến lúc ánh sáng công-lư có khả-năng hoá-giải sách-lược "Biển
Sách" nguỵ-tạo lịch-sử của Trung-Cộng.
Lời kêu gọi của
một vị Cựu Tổng-Hội-Trưởng Cựu Hải-Quân và Hàng-Hải VNCH ngày 27
tháng 3 năm 1997 sau đây khá thuyết-phục:
"Chúng tôi thành-khẩn
kêu gọi toàn-thể đồng-bào cương-quyết và đồng-tâm trong nhiệm-vụ
bảo-vệ chủ-quyền và tài-nguyên quốc-gia. Tùy theo khả-năng và hoàn-cảnh, chúng
ta sẽ làm đủ mọi cách để các nguyện-vọng nói trên sớm được
thoả-măn. Chúng ta quyết không để mất một tấc đất hay tấc biển
mà toàn dân Việt-Nam đă tạo-dựng, bảo-vệ và ǵn giữ trong suốt bốn ngàn
năm qua."
Những Biến cố Mất-mát và
Xâm-phạm hải-phận
Chưa bao giờ trong Việt-Sử chúng ta bị mất quá nhiều chủ-quyền lănh-thổ,
đặc-biệt là mất mát hải-phận nhiều như vậy trong ít năm vừa
qua. Không những Việt-Nam thiệt hàng chục ngàn Km2 tại Vịnh Bắc-Việt cho Trung-Cộng,
nước ta c̣n mất nhiều ngàn Km2 cho Thái-Lan tại Vịnh Phú-Quốc và mất mát nhiều
chục ngàn Km2 nữa cho Nam Dương tại vùng biển phía Nam Côn-Sơn.
Sự mất mát hải-phận
rất đau ḷng nhưng không phải sự mất mát tạo ḥa-b́nh cho người dân Việt
làm ăn yên-ổn. Trung-Cộng vẫn tiếp-tục lấn-áp qua nhiều h́nh-thức khác
nhau:
- Trung Quốc phản-đối,
cản-trở không muốn cho Việt-Nam gọi đấu thầu các lô dầu khí Phú Khánh,
ngoài bờ biển Phú-Yên Khánh-Ḥa. Căn cứ vào luật pháp quốc tế, nhất là Công
ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, khu vực này hoàn toàn
thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
- Trung Quốc mang dàn khoan KANTAN
3 đến hoạt động tại khu vực có tọa độ 17 độ 26 phút 42
giây Vĩ độ Bắc, 108 độ 19 phút 05 giây Kinh độ Đông, cách bờ biển
Việt Nam 63 hải lư, cách bờ biển đảo Hải Nam, Trung Quốc 67 hải lư từ
ngày 19/11 đến 31/12/2004. Cũng căn cứ vào luật pháp quốc tế, nhất là Công
ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, khu vực này hoàn toàn
thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
- Trung Quốc gửi tàu thuyền
xâm phạm chủ quyền vùng biển VN. Từ đầu năm 2004 đến nay, riêng Bộ
đội Biên pḥng Đà Nẵng đă phát hiện 1,017 lượt tàu thuyền nước
ngoài xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt-Nam, uy hiếp ngư dân làm ăn trên biển.
Trong đó đă gây ra 89 vụ tông va, làm chết và mất tích 23 người, bị thương
6 người, ch́m và hư hỏng 10 phương tiện, 12 thúng câu, mất cắp trên 13.000m
lưới các loại... Ngoài Đà Nẵng, những vùng khác không biết t́nh-h́nh ra sao?
Đi t́m Bản-đồ Hải-phận.
Những chuyện
lộn-xộn với Trung-Quốc sẽ c̣n tiếp-tục. Địa-điểm này hay địa–điểm
kia có nằm trong hải-phận Việt-Nam hay không? Chúng ta cần phải có tấm bản-đồ
hải-phận mới có thể xác-nhận được.
Công-việc vẽ
bản-đồ Đất Nước (kể cả hải-phận) là bổn-phận của
chính-quyền. Ngay khi vào học lớp Vỡ ḷng hay Đồng Ấu gần trăm năm
trước, học tṛ Việt-Nam nào cũng thấy tấm bản-đồ nước
ta trên vách tường. Ranh giới “Đất” như vậy đă có từ lâu, c̣n
ranh-giới “Nước” cho đến hôm nay vẫn chưa ai nh́n thấy!
Mọi tài-liệu về địa-lư, chính-trị,
giáo-dục trong nước Việt-nam đều đă xác quyết vùng hải-phận Việt-nam
rộng lớn gần l triệu km2 tức gấp 3 lần diện tích đất liền.”
Nhà Nước đă và đang cố-gắng vẽ địa-đồ chữ “S nhỏ
329,560km2”cho thêm chính-xác. Bản-đồ chữ “S lớn 1,329,560 km2” và bản-đồ
hải-phận Việt-Nam 1,000,000 km2 cũng phải cho nhân-dân biết mà cùng nhau bảo-toàn
Đất Nước Việt-Nam
Truy lùng sách vở tài-liệu, người ta đă
t́m thấy một số bản-đồ được vẽ một cách phỏng chừng
bởi người nước ngoài. Cá-nhân chúng tôi cũng từng vẽ một số sơ-đồ
với các đường ranh giới hải-phận kinh-tế theo những giả-thuyết
trong sách “Địa lư Biển Đông với Hoàng-Sa, Trường-Sa”.Để chấm
dứt bài viết, chúng tôi mạo muội tŕnh-bày một số bản-dồ hải-phận
kiểu “giả-thuyết” như vậy và mong mỏi sớm thấy một bản-đồ
chính-thức cho quốc-gia.