THỦY
QUÂN LỤC CHIẾN VNCH
Lời mở đầu: Sau khi đảm
nhận chức vụ Trưởng Pḥng 3 Sư Đoàn vào tháng 10/1974, Người Viết đă
cố truy tầm tài liệu P3/SĐ, nhưng không thấy có một tài liệu nào chính thức
nói rơ về việc thành lập Binh Chủng TQLC, từ thời Quân Đội Pháp đến Quân
Đội VNCH. Có thể v́ t́nh trạng chiến tranh kéo dài hơn hai thập niên, nên công tác soạn
thảo và lưu trữ sử liệu Binh Chủng chưa được coi là công tác cần
thiết chăng? Có một vài tài liệu các sĩ quan thường dùng khi được Binh
Chủng gửi đi thuyết tŕnh cho các khóa Chỉ Huy và Tham Mưu các Quân Binh Chủng Bạn,
nhưng có khi lại do các SQ này tự biên soạn, v́ thế nội dung quá tổng quát và chú
trọng đến thành tích chiến trận của các đơn vị TQLC nhiều hơn.
Sau tháng 4/1975 ra hải ngoại, việc sưu tầm tài liệu Binh Chủng tương đối
dễ dàng và khá nhiều nhờ sách báo và tài liệu tại các thư viện quốc gia Pháp
và Hoa Kỳ, và trên hệ thống Internet toàn cầu. Tuy nhiên, mức chính xác của các tài liệu
này về thời gian, không gian, cơ sở, danh xưng các đơn vị và danh tánh các đơn
vị trưởng cũng cho thấy nhiều sai biệt và không phù hợp với nhau. Nay
được một số Niên Trưởng thâm niên trong Binh Chủng cung cấp những
hiểu biết cá nhân và cùng với một số tài liệu sưu khảo khả tín, Người
Viết mạo muội tổng hợp thành một tài liệu "rất căn bản", với
hy vọng sẽ được các Niên Trưởng và quư chiến hữu trong Binh Chủng
bổ túc thêm những dữ kiện chính xác hơn, bù đắp cho những thiều sót ngoài
ư muốn và hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi. Người Viết xin đặc
biệt chân thành cảm tạ sự đóng góp những hiểu biết quư giá từ quư NT
Cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Lê Đ́nh Quế, Tôn Thất Soạn, Ngô Văn Định, Hoàng
Tích Thông, Nguyễn Năng Bảo; quư cựu Trung Tá Nguyễn Kim Đễ, Nguyễn Minh Châu, cựu
Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn, Lâm Tài Thạnh và một số Mũ Xanh thân quen. Bài sưu
tầm tổng hợp này sẽ được đưa lên trang web: www.tqlcvn.net, phần Chiến
Sử, và sẽ được thường xuyên bổ túc khi nhận được những
dữ kiện chính xác mới.
TQLC, Giai Đoạn Chuyển Tiếp
Ngay trong năm 1953, hai chính phủ Pháp và Việt Nam đă thỏa thuận
gia tăng Lực Lượng Bộ Binh Việt Nam lên đến 57 tiểu đoàn hầu
đáp ứng nhu cầu hành quân, và mở thêm nhiều cuộc hành quân đến các vùng duyên
hải. Do đó, việc gia tăng lực lượng hải quân cũng được coi
là quan trọng. Khi nghiên cứu quyền chỉ huy các lực lượng hỗn hợp hành
quân trong sông ng̣i, Đô Đốc người Pháp là Auboyneau đưa ra đề nghị thành lập
đơn vị mang tên là Bộ Binh Hải Quân. Vào năm 1954, khi quân Pháp bắt đầu
rút lui khỏi Việt Nam, th́ đơn vị Bộ Binh Hải Quân c̣n nằm trong tổ chức
của Hải Quân, mới chỉ có một Bộ Chỉ Huy, 4 Giang Đoàn và những Đại Đội
Biệt Kích (Commando) hành quân biệt lập.
Sau khi Quân Đội Pháp rút khỏi Viện Nam
vào cuối năm 1954, Chính Phủ và Quân Đội Hoa Kỳ trực tiếp đóng vai tṛ quân
viện và trợ giúp Quân Đội Nam Việt Nam tái tổ chức. Một sĩ quan TQLC trong
Cơ Quan Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ (USMAAG) là Trung tá Victor J. Croizat, sau nhiều cuộc
tiếp xúc và thảo luận chính thức để xúc tiến việc thành lập Binh Chủng
mới với chính phủ Việt Nam, th́ ngày 13 tháng 10 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đ́nh
Diệm kư Nghị Định số 991/NĐ, trong đó, điều 1 và 3 ghi rơ: Điều
1: Hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1954, thành lập trong Tổ Chức Hải
Quân VN, một Binh Chủng Bộ Binh, đặc trách kiểm soát các thủy tŕnh và những
cuộc hành quân thủy bộ dọc theo bờ biển Nam Hải và trong sông ng̣i, mang tên: “Binh
Chủng Thủy Quân Lục Chiến”. Điều 3: Binh Chủng TQLC sẽ gồm
nhiều đơn vị khác nhau, tùy theo nhiệm vụ, đă có sẵn trong các Quân Chủng
Lục Quân và Hải Quân, hay sẽ được thành lập sau nay, tùy theo kế hoạch
phát triển của Quân Đội Nam VN. Chiếu theo Nghị Định này, những Đại
Đội Biệt Kích, Đại Đội Yểm Trợ và Giang Đoàn, từ hai Quân Chủng Hải
và Lục quân được sát nhập để thành lập Binh Chủng TQLC. Nhiều đơn
vị Biệt Kích Hải Quân, từng hoạt động trong vùng đồng bằng sông
Hồng Hà Bắc Việt tỏ ra rất hữu hiệu. Đoàn tàu xung kích đó thường
gồm trên 10 chiếc, với những chiến đĩnh chở quân đổ bộ vơ trang,
chiến đĩnh yểm trợ hỏa lực và chiến đĩnh chỉ huy. Một
Đại Đội Biệt Kích, quân số khoảng 100 người, đặt dưới quyền
điều động của một BCH Hải Quân. Với lực lượng và hỏa
lực như vậy, đoàn tàu xung kích có khả năng điều động những đơn
vị bộ binh tác chiến, đổ bộ lên những vùng địa thế hiểm trở,
với hỏa lực yểm trợ tiếp cận hùng hậu của dại liên, đại
bác trực xạ và súng cối tầm xa. Những cuộc hành quân loại này đă đạt
được nhiều kết quả trong khu vực sông Hồng Hà, là nơi có nhiều sông
ng̣i và có nhiều đơn vị Cộng Sản trú ẩn.
Đệ I Tiểu Đoàn Bộ
Binh Hải Quân (1er Bataillon de L'infanterie Marine) đầu tiên được thành lập từ
những Đại Đội Biệt Kích dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Pháp,
đồn trú tại căn cứ gần Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Cũng
vào thời gian đầu này, Tr/Tá Lê Quang Trọng được Thủ Tướng Ngô Đ́nh
Diệm bổ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Binh Chủng TQLC và
Trung Tá Croizat cũng được USMAAG cử làm Cố Vấn Trưởng đầu tiên.
Những thành phần c̣n lại của Binh Chủng trong khi đó vẫn c̣n phân tán ở nhiều
nơi, từ Huế vào đến vùng Châu Thổ sông Cửu Long như: 6 Đại Đội
Giang Thuyền, 5 Đại Đội Yểm Trợ Tác Chiến và 1 đoàn chiến thuyền
huấn luyện. V́ chưa có Bộ Chỉ Huy chính thức, nên Tr/Tá Trọng gần như
cách biệt với các đơn vị dưới quyền của ông. Với một tổ
chức và tên tuổi mới mẻ, Binh Chủng TQLC đă gặp rất nhiều khó khăn.
Trước nhất, và có lẽ là nguyên do chính, dù đă có nghị định thành lập của
Thủ Tướng Diệm, Binh Chủng TQLC thực tế vẫn ở trong vị thế
"bán chính thức". Một cố vấn HK đă giải thích: "Binh Chủng TQLC/VN ít được
ai biết tới. Họ gồm nhiều đơn vị không đồng nhất, lại
đồn trú rải rác quá nhiều nơi, từ Huế vào đến vùng Châu Thổ Cửu
Long". Trên thực tế, những đơn vị đồn trú phân tán đó, vẫn do đạo
quân viễn chinh Pháp yểm trợ về tiếp vận tiếp liệu, cho thấy rơ t́nh
trạng "lệ thuộc" của Binh Chủng. Kế đến, trở ngại đến
từ phía người Pháp. Sĩ quan Pháp vẫn nắm giữ các chức vụ chỉ huy
các đơn vị. Binh Chủng TQLC lại nằm trong hệ thống tổ chức của
Hải Quân. Dưới sự thỏa thuận của Pháp và Hoa Kỳ trong giai đoạn
đầu chuyển tiếp, Hải Quân và Không Quân VN do các sĩ quan Pháp trách nhiệm tổ
chức và huấn luyện. Một vị Đại Tá Pháp giữ 2 nhiệm vụ, vừa là
Trưởng Tiểu Ban Thành Lập và Huấn Luyện Hải Quân, vừa là Tư Lệnh
Hải Quân Nam VN. Điều này đă dành cho vị sĩ quan Hải Quân Pháp toàn quyền duyệt
xét và quyết định những đề nghị đưa lên từ phía Cố vấn
TQLC Hoa Kỳ. Vấn đề thêm phức tạp, Tiểu Đoàn Trưởng Đệ I Tiểu
Đoàn Bộ Binh Hải Quân lúc đó lại là Th/Tá người Pháp tên là Souquet, TĐP là Đ/U Jean Louis
Delayen, Đại Đội Trưởng CH là Đ/U Roger Bùi Phó Chí. Kế hoạch giải ngũ chung
trong quân đội Nam VN theo hiệp định Genève cũng đưa đến nhiều
trở ngại cho Binh Chủng TQLC vào đầu năm 1955. Theo sự thỏa thuận của
hai Chánh phủ HK và Nam VN, quân số của Hải Quân được ấn định là
3,000 người, trong đó TQLC đă có tới 2,400, vừa sĩ quan lẫn binh sĩ, được
lệnh phải giảm xuống c̣n 1,137 người. V́ Binh Chủng TQLC chưa có Bộ Chỉ
Huy Trung Ương và chưa có thực quyền, ngay cả nhiệm vụ là tập trung các
đơn vị, nên đă xảy ra nhiều vấn đề khó khăn và phức tạp
về quản trị hành chánh. Do đó, việc thành lập và phát triển Binh Chủng TQLC
lúc đầu đă gặp rất nhiều trở ngại. Binh Chủng TQLC/VN nằm trong
tay 3 nhân vật chính: Th/Tá Souquet, Trung tá Victor J. Croizat và Tr/Tá Lê Quang Trọng.
Thời gian
đầu năm 1955, về chính trị, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm gặp khó khăn liên
tiếp do những tranh chấp nội bộ, gây tê liệt không ít đến nỗ lực
xây dựng một Quốc Gia chống Cộng do các phe phái tại Nam VN. Vào tháng 2, các nhà lănh
đạo Giáo Phái Ḥa Hảo, Cao Đài và tổ chức Binh Xuyên bất măn với chính phủ
của Thủ Tướng Diệm v́ đă không thỏa măn những yêu sách của họ, liên
kết thành một tổ chức lấy tên "Mặt Trận Liên Hiệp Lực Lượng
Quốc Gia". Cuối tháng 3, tổ chức này cảm thấy lực lượng của họ
đủ mạnh để đương đầu với quân chính phủ, đă tạo
ra những cuộc giao tranh quân sự. Lực lượng của Giáo Phái Ḥa Hảo mở
những trận đánh du kích vào lực lượng chính phủ trong vùng căn cứ địa
của Giáo Phái ở Châu Đốc, phía Tây Nam Sài g̣n. Ngày 28 tháng 3, Thủ Tướng Diệm
ra lệnh cho một đơn vị Nhảy Dù tấn công và chiếm Bộ Tư Lệnh
Cảnh Sát Quốc Gia, lúc đó Pháp trao quyền kiểm soát cho Binh Xuyên. Nhiều cuộc chạm
súng dữ dội giữa quân chính phủ và lực lượng B́nh Xuyên đă xảy ra trên
các đường phố Sàig̣n và Chợ Lớn. Sau 3 ngày giao chiến, qua sự dàn xếp
của tướng Paul Ely, quân chính phủ và B́nh xuyên ngưng bắn. Ngày 31, lực lương
quân sự Cao Đài của Thiếu tướng Trịnh Minh Thế tuyên bố ly khai Mặt
Trận Liên Hiệp về hợp tác với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và sát nhập các đơn
vị vơ trang vào quân đội Quốc gia. Cuộc ḥa hoăn giữa quân chính phủ và B́nh Xuyên
kéo dài không lâu. Ngày 28 tháng 4, cuộc đụng độ quân sự lại tái phát. Tới giữa
tháng 5, lực lượng của quân chính phủ đẩy lui được quân đội
B́nh Xuyên ra khỏi Sàig̣n và Chợ Lớn, gây rạn nứt trong hàng ngũ lănh đạo của
tổ chức này. Tàn quân của B́nh Xuyên đă rút lui vào mật khu Rừng Sát, phía Nam Sàig̣n,
vùng rừng cây đước mọc chằng chịt và địa thế x́nh lầy dễ
lẩn tránh và chiến đấu từng toán nhỏ.
Binh Chủng TQLC đă được
chính phủ tin tưởng sau những chiến thắng khởi đầu cuộc chính biến.
Ngày 1 tháng 5 năm 1955, Trung Tá Lê quang Trọng thiết lập bản doanh và Bộ Chỉ Huy
chính thức tại Trại Cửu Long, Thị Nghè, sau được dời về số
15 Lê Thánh Tôn Sài G̣n sau cuộc Cách Mạng lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
tháng 11 năm 1963. Thủ Tướng Diệm bổ nhiệm Đại Úy Bùi Phó Chí làm Tiểu
Đoàn Trưởng Đệ I Tiểu Đoàn Bộ Binh Hải Quân thay thế Th/Tá Souquet. Các
sĩ quan Pháp chỉ c̣n giữ chức vụ cố vấn. Vào cuối tháng 6, Thủ Tướng
Diệm thay thế tất cả sỉ quan Pháp đang giữ chức vụ chỉ huy trong
Hải Quân bằng sĩ quan VN. Việc thay đổi này dă làm giảm thiểu ảnh hưởng
người Pháp trong Quân Đội và cũng từ đó, TQLC/VN được điều động
bởi Bộ Tổng Tham Mưu trung ương nhiều hơn. Tại vùng nông thôn phía Nam Sàig̣n,
lực lượng gần 30 tiểu đoàn quân chính phủ, trong đó có Tiểu Đoàn Bộ
Binh Hải Quân, mở những cuộc tấn công vào các đơn vị chủ lực và
bán quân sự của Giáo phái Ḥa Hảo. Cuối tháng 6, thủ lănh Ba Cụt bị bắt, Năm
Lửa quy hàng với trên 8,000 quân và ra lệnh ngưng các hành động chống đối
chính phủ. Đệ I Tiểu Đoàn Bộ Binh Hải Quân đă đánh một trận quyết
định với lực lượng Ḥa Hảo tại tỉnh Kiên Giang, cách Sàig̣n 120 cây số
về phía Tây Nam, chiếm được bản doanh và tiêu diệt lực lượng này.
Đoạn kết của cuộc xung đột Giáo Phái được đánh dấu bằng
cuộc trưng cầu dân ư toàn quốc ngày 23 tháng 10 bầu vị nguyên thủ Miền Nam.
Kết quả, Thủ Tướng Diệm đạt được tỷ lệ số
phiếu 98% so với Cựu Hoàng Bảo Đại. Và, ngày 26 tháng 10, tân Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm tuyên bố Quốc Hiệu của Miền Nam là Việt Nam Cộng Ḥa.
Cuối
năm 1955, Đệ I Tiểu Đoàn Bộ Binh Hải Quân, xử dụng các đại đội
Giang Thuyền tấn công những ổ kháng cự cuối cùng của B́nh Xuyên tại Rừng
Sát, đánh dấu sự tan ră hoàn toàn của các lực lượng chống đối chính
phủ. Ngày 18 tháng 1 năm 1956, Tổng Thống Diệm bổ nhiệm Thiếu Tá Phạm
Văn Liễu làm Chỉ Huy Trưởng TQLC, vị CHT thứ 2 của Binh Chủng, thay thế
Trung Tá Lê Quang Trọng đi giữ chức Tư Lệnh SĐ Bộ Binh. Các vị Tiểu
Đoàn Trưởng TĐ1/TQLC gồm: Th/Tá Souquet (1954), Đ/U Bùi Phó Chí (1955), Tr/U Ngụy Văn Thanh (1956),
Đ/U Nguyễn Văn Tài (1958), Đ/U Lê Nguyên Khang (1960), Tr/U Trần Văn Nhựt (1960), Đ/U Tôn Thất
Soạn (1964), Đ/U Phan Văn Thắng (1966), Th/Tá Nguyễn Thành Trí (1969), Th/Tá Nguyễn Đằng
Tống (1970), Th/Tá Nguyễn Đăng Ḥa (1972) và Th/Tá Dương văn Hưng (1975).
Quân Phục và Trang Bị
Từ khởi đầu cho đến năm 1960, TQLC mang quân phục
hỗn hợp tương tự như Hải Quân và như Lục Quân VN, đội nón beret
xanh có hai mỏ neo chéo nhau. Nhưng từ năm 1960 trở đi, nhằm tạo niềm tự
hào Binh Chủng (Esprit de Corps), quân phục tác chiến của Binh Chủng màu ngụy trang bệt
đen và xanh lá cây sóng biển, c̣n được gọi là da cọp. Huy hiệu Binh Chủng
cũng được dùng từ thời gian này, lấy mẫu từ huy hiệu của TQLC
HK, con Ó đứng trên quả cầu, mỏ neo bắt chéo, có thêm đặc điểm là
ngôi sao đỏ bên trong có bản đồ VN màu Vàng. Huy hiệu được gắn trên
mũ beret và trên cánh tay áo trái. TQLC cũng dùng mũ lưỡi trai và nón sắt bọc vải
ngụy trang như TQLC HK. Giữa thập niên 1960, huấn luyện viên quân sự và cơ bản
thao diễn tại TTHL/TQLC c̣n dùng mũ nỉ vành rộng màu nâu "Smokey the Bear hat". Quân phục
kaki vàng, các loại quân phục dạo phố mủa hè mùa đông và đại lễ cũng
tương tự như Hải Quân, nhưng về cấp bậc, thay v́ màu Vàng, TQLC dùng màu
kim tuyến Trắng. Từ khi thành lập cho đến giữa thập niên 1960, TQLC giữ
nguyên trang bị các loại vũ khí từ thời Pháp. Đến giữa năm 1963, một số
súng AR15 và M79 được trang bị cho TQLC nhưng c̣n mang tính cách trắc nghiệm. Măi đến
1967, TQLC mới hoàn toàn được trang bị súng trường mới M16 cùng với súng
phóng lựu M79, đại liên M60 và hỏa tiễn chống chiến xa M72. Trong trận chiến
Mùa Hè 1972, TQLC c̣n được trang bi thêm hỏa tiễn điều khiển TOW chống
chiến xa.
Cải Tổ và Phát Triển
Qua năm 1956, quân số của Binh Chủng giảm xuống c̣n khoảng
1,800 người, mặc dầu vẫn duy tŕ hệ thống tổ chức như lúc đầu,
gồm có 6 Đại Đội Hải Thuyền, 5 đại đội Yểm Trợ nhẹ,
1 Tiểu đoàn Bộ Binh, và 1 Bộ Chỉ Huy. Sau hơn nửa năm nghiên cứu của
bộ tham mưu và được các cố vấn HK yểm trợ, ngày 21 tháng 12, Thiếu
Tá Liễu đệ tŕnh lên Bộ Tổng Tham Mưu kế hoạch cải tổ mới
với 2 điểm đặc biệt là: -Thành lập thêm 1 tiểu đoàn bộ binh TQLC
mà quân số không quá mức ấn định, -và nâng Binh Chủng thành Liên Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến. Bộ Tổng Tham Mưu chấp thuận những đề nghị của TQLC
đưa lên. Kế hoạch phát triển khởi sự vào tháng 2 năm 1956 khi Tiểu Đoàn
1 Bộ Binh TQLC hoàn tất công tác "dẹp loạn" trở về hậu cứ Nha Trang. Tất
cả những đại đội Hải Thuyền và Yểm trợ được giải
tán. Ba đơn vị tân lập gồm có: Tiểu đoàn 2 Bộ Binh TQLC, một Đại
Đội Trọng Pháo 106 ly, tiền thân của Pháo Binh TQLC và một Đại Đội Chỉ
Huy và Công Vụ Liên Đoàn, tiền thân của TĐ Tổng Hành Dinh.
Sau khi chiến dịch Hoàng
Diệu nhằm tảo thanh tàn quân B́nh xuyên ở Rừng Sát chấm dứt ngày 24/10/1955, Đ/U
Nguyễn Kiên Hùng, CHT Liên đoàn Tuần Giang và xung kích số 1, được chỉ định
thành lập Tiểu đoàn 2 Bộ Binh TQLC. Đơn vị tân lập đồn trú tại
Long Hải, Bà Rịa. Đầu năm 1956, TĐ rời căn cứ về Rạch Dừa Vũng
Tàu. Tháng 6 năm 1957, một lần nữa, TĐ di chuyển bằng đường bộ ra
Ba Ng̣i, tiếp nhận căn cứ Cam Ranh của Hải Quân Pháp trao lại, là nơi quân đội
Pháp đă dùng để huấn luyện lực lượng thủy bộ trong giai doạn
cuối cuộc chiến Đông Dương. Với kết quả cải tổ này, sơ
đồ tổ chức của Tiểu Đoàn TQLC/VN tương tự như sơ đồ
tổ chức của Tiểu Đoàn TQLC Hoa Kỳ gồm 3 đại đội tác chiến,
1 đại đội vũ khí nặng và 1 đại đội chỉ huy và công vụ.
Mỗi đại đội tác chiến có 3 trung đội khinh binh và 1 trung đội vũ
khí cộng đồng. Và cũng như vậy, 1 trung đội khinh binh có 3 tiểu đội
chiến đấu, mỗi tiểu đội có 3 tiểu tổ 3 binh sĩ (sau này, hệ
thống tam chế được cải tổ thành tứ chế). Vũ khí cá nhân trang bị
cho các khinh binh là súng Carbine M-1, loại vũ khí nhẹ từng được trang bị cho
những đơn vị Commando thời Pháp. Trung đội vũ khí cộng đồng được
trang bị 6 khẩu trung liên BAR (Browning Automatic Rifle). Đại đội vũ khí nặng
của tiểu đoàn gồm 1 trung đội 4 khẩu súng cối 81 ly và một trung đội
2 khẩu đại bác không giật 57 ly. Trong khi kế hoạch cải tổ được
tiến hành tốt đẹp, BCH Liên Đoàn khởi sự kế hoạch phát triển Binh
Chủng thành Trung Đoàn. Với kế hoạch này, quân số TQLC sẽ tăng từ 1,837
lên 2,485 người, vẫn không vượt quá mức quân số ấn định của
Hải Quân và của QLVNCH, trong đó, Tiểu Đoàn Bộ Binh TQLC thứ ba sẽ được
thành lập. Kế hoạch này cũng đề nghị, Binh Chủng TQLC sẽ trở thành
lực lượng Tổng Trừ Bị và được đặt trực tiếp dưới
quyền điều động cùa Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Mặc dù đề nghị
này không được chấp thuận ngay, nhưng đă trở thành kế hoạch phát triển
sau đó. Các vị Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2 gồm: Đ/U Nguyễn Kiên Hùng (11/1955), Đ/U Hoàng
A Sam (6/1956), Đ/U Lê Nguyên Khang (9/1957), Đ/U Nguyễn Hải Đằng (5/1958), Đ/U Nguyễn Thành Yên (7/1958),
Tr/U Dương Hạnh Phước (6/1960), Đ/U Nguyễn Thành Yên (1/1961), Đ/U Cổ Tấn Tinh
Châu (11/1963), Đ/U Hoàng Tích Thông (11/1964), Th/Tá Lê Hằng Minh (11/1965), Đ/U Ngô Văn Định (6/1966),
Th/Tá Nguyễn Kim Đễ XLTV/TĐ (3/1969), Th/Tá Nguyễn Xuân Phúc (5/1969), và Th/Tá Trần văn Hợp
(5/72-4/1975).
Đầu tháng 8 năm 1956, Tổng Thống Diệm bổ nhiệm Đại
Úy Bùi Phó Chí, lúc đó đang làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Bộ Binh TQLC,
kiêm nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn TQLC thay thế Thiếu Tá Phạm
Văn Liễu. Đến ngày 1 tháng 10, Thiếu Tá Lê Như Hùng được bổ nhiệm
làm Chỉ Huy Trưởng thứ 4 của Binh Chủng.
Ngày 1/9/1957 Đ/U Lê Nguyên Khang
được ủy thác thành lập Tiểu Đoàn 3 Bộ Binh TQLC. Đ/U Trần Trung Ái, XLTV
chức vụ Tiểu đoàn Trưởng một thời gian ngắn rồi được
thuyên chuyển về làm Trưởng ban Tâm lư chiến Liên đoàn và Đ/U Nguyễn kiên Hùng
lên thay. Kể từ năm 1957 đến 1971 Hậu cứ của TĐ3 được lần
lượt qua các nơi như Thủy Xưởng Miền Đông thuộc BTL Hải Quân
đến trại Hoàng Diệu, trại Chương Dương, trại Ngô Xuân Soạn ở
Thủ Đức. Tử Năm 1971, hậu cứ TĐ3 được di chuyển vào Căn
Cứ Sóng Thần, Dĩ An. Sau ngày lễ xuất quân tại G̣ Dưa, Thủ Đức, Tiểu
Đoàn 3 mở những cuộc hành quân an ninh tại Đức Ḥa, Đức Huệ (Hậu
Nghĩa), yểm trợ mở đường xuyên qua khu rừng C̣ Mi (sau này là đường
xa lộ từ Dĩ An đến B́nh Dưong). Rồi TĐ3 bất ngờ đổ bộ
lên đảo Phú Quốc, vùng Đá Bạc (U Minh) để phá tan hậu cần của CS.
TĐ3 là đơn vị tiên phong đột nhập và tiến chiếm Cổ Thành Quảng Trị
cùng với các TĐ khác trong ngày 15 tháng 9 năm 1972. Tiểu Đoàn 3/TQLC được chỉ huy
bởi các TĐT sau đây: Đ/U Lê Nguyên Khang (9/1957), Đ/U Trần Trung Ái (1959), Đ/U Nguyễn Kiên Hùng (1959),
Đ/U Mă Viết Bằng (1961), Đ/U Dương Hạnh Phước (1962), Đ/U Mă Viết Bằng
(5/1963), Đ/U Tôn Thất Soạn (12/1963), Th/Tá Nguyễn Thành Yên (1/1964), Th/Tá Nguyễn Thế Lương
(12/1964), Đ/U Nguyễn Năng Bảo (6/1966), Th/Tá Phạm Văn Sắt (5/1969), Th/Tá Nguyễn
Năng Bảo (9/1969), Th/Tá Lê Bá B́nh (1971), Th/Tá Nguyễn Văn Cảnh (1972), và Th/Tá Nguyễn
Văn Sử (1974).
Tiểu đoàn 4/TQLC được thành lập tại trại Cửu
Long, Thị Nghè, Gia Định vào đầu tháng 9/1961. Sau khi hoàn tất huấn luyện,
TĐ di chuyển đồn trú hậu cứ tại trại Hoàng Hoa Thám, đường Lê
Lợi, thị xă Vũng Tàu vào đầu tháng 3/1962. Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên
là Đ/U Bùi Thế Lân và TĐP là Đ/U Tôn Thất Soạn vừa mản khóa Tham Mưu Hành
quân Thủy Bộ Mỹ trở về. Lần xuất quân đầu tiên mang tên Sơn Dương
2, những Cọp Biển TĐ4/TQLC đă thực hiện một cuộc hành quân đổ
bộ vô tiền khoáng hậu trong lịch sử TQLC bằng những ghe đánh cá bằng
gỗ và những xuồng tam bản trong khi biển động. Không có chiến đỉnh
yểm trợ và không có hải pháo dọn băi, TĐ4 đă hành quân tàn phá mật khu Lê Hồng
Phong ở phía Tây Bắc quận Mũi Né, Phan Thiết, phá hủy toàn bộ các mật khu Đằng
Kia, Ara Salour ở Tây Nam Phan Thiết, các doanh trại, các khu canh tác, tịch thu nhiều tiếp
liệu phẩm từ miền Bắc đưa vào. Đây là mật khu bất khả xâm phạm
từ thời chiến tranh Pháp trước năm 1954. Các vị Tiểu Đoàn Trưởng
của Tiểu đoàn 4/TQLC gồm: Đ/U Bùi Thế Lân (1961), Đ/U Lê Hằng Minh (1963), Th/Tá Nguyễn
Kiên Hùng (1964), Đ/U Nguyễn Văn Nho (1964), Đ/U Nguyễn Thành Trí (1965), Th/Tá Đỗ Đ́nh Vượng
(1968), Th/Tá Vơ Kỉnh (1969), Th/Tá Trần Xuân Quang (1971), Th/Tá Nguyễn Đằng Tống (1972), Th/Tá
Trần Ngọc Toàn (1973), Th/Tá Đinh Long Thành (3/1975), và Th/Tá Trần Ngọc Toàn (4/75).
Tháng
5 năm 1960, Th/Tá Lê Nguyên Khang được bổ nhiệm giữ chức CHT Liên Đoàn TQLC.
Để yểm trợ đặc biệt cho các cuộc hành quân, các đại đội
Yểm Trợ Thủy Bộ, Đại Đội Vận Tăi, Đại Đội Truyền Tin,
Đại Dội Quân Y, kế tiếp nhau ra đời. Sau ngày Cách Mạng lật đổ
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm 1 tháng 11 năm 1963, Tr/Tá Nguyễn Bá Liên lên giữ chức CHT
Liên Đoàn, Th/Tá Trần Văn Nhựt giữ chức Chỉ Huy Phó Liên Đoàn. Sau cuộc chỉnh
lư đầu năm 1964, Đại Tá Lê Nguyên Khang được tái bổ nhiệm chức vụ
CHT Liên Đoàn TQLC, Th/Tá Bùi Thế Lân làm Tham Mưu Trưởng. Ngày 5 tháng 1 năm 1965, Binh Chủng
chính thức tách rời khỏi Quân Chủng Hải Quân, trực thuộc Bộ TTM/QLVNCH về
chỉ huy, điều động chiến thuật và yểm trợ tiếp vận. Cùng với
Nhảy Dù, TQLC là lực lượng Tổng Trừ Bị của Bộ TTM/QLVNCH. Trong hai tuần
lễ diễn biến chính trị đầu tháng 5 năm này, Th/Tướng Lê Nguyên Khang được
chỉ định kiêm nhiệm chức Tư Lệnh Hải Quân thay thế Đề Đốc
Chung Tấn Cang. Sau khi tách rời khỏi Hải Quân, ngày 1 tháng 10 năm 1965, Liên Đoàn TQLC được
cải danh thành Lữ Đoàn TQLC và danh xưng CHT cũng được đổi thành Tư
Lệnh. Ngày 1 tháng 10 năm 1968, ngày Sinh Nhật Binh Chủng TQLC thứ 14, là ngày Lữ Đoàn
TQLC được nâng lên thành Sư Đoàn TQLC. Các đơn vị yểm trợ cũng
tăng cấp thành Tiểu Đoàn như: Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ, Truyền
Tin, Công Binh, Quân Y.
Trước đó năm 1964, v́ nhu cầu chiến thuật, hai Bộ
Chỉ Huy Chiến Đoàn A và Chiến Đoàn B được thành lập để chỉ huy các
TĐ/TQLC tăng phái hành quân tại lănh thổ các Quân Khu và Vùng Chiến Thuật. Cuối năm
1964, Tr/Tá Nguyễn Thành Yên Chỉ Huy Phó Liên Đoàn kiêm nhiệm chức vụ Chiến Đoàn Trưỏng
CĐA . Tr/Tá Tôn Thất Soạn được bổ nhiệm chính thức chức CĐT/CĐB vào cuối
năm 1965. Cuối năm 1967, sau khi thụ huấn khóa Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp Đalạt
trở về, Th/Tá Hoàng Tích Thông được bổ nhiệm làm CĐT/CĐA thay thế Đ/Tá Nguyễn
Thành Yên lên chức Tư Lênh Phó Lữ Đoàn TQLC. Ngày 1 tháng 10 năm 1968, hai BCH/Chiến đoàn
A và B được cài danh thành hai BCH/Lữ đoàn 147 và 258. Sau cuộc hành quân Lam Sơn 719,
tháng 4 năm 1971, Đ/Tá Hoàng Tích Thông rời Binh Chủng, bàn giao LĐ147 cho Tr/Tá Nguyễn Năng Bảo,
lúc BCH/LĐ đang đóng tại khu vực La Vang, Quảng Trị. Tháng 7 năm 1974, Tr/Tá Đỗ
Hữu Tùng XLTV/LĐT thế Đ/Tá Bảo theo học khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Long B́nh.
Tháng 11/74, Đ/Tá Nguyễn Thế Lương sau khi măn khóa học CHTM Cao Cấp, giữ chức
vụ LTĐ/147 thay Tr/Tá Tùng và chỉ huy LĐ cho đến cuối tháng 3/1975, khi toàn bộ LĐ bị
Cộng quân bao vây trên lộ tŕnh triệt thoái từ Huế về Đà Nẵng dọc theo bờ
biển, bị bắt làm tù binh gần cửa biển Thuận An, Huế.
Tháng 6 năm 1970, Đ/Tá Soạn bàn giao LĐ258 lại cho Tr/Tá Nguyễn Thành
Trí để theo học Khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Đà Lạt. Sau khóa học, Đ/Tá Soạn
về giữ chức Trưởng Pḥng Tổng Thanh Tra SĐ/TQLC. Đầu tháng 4/1971, Tr/Tá Trí được
vinh thăng Đ/Tá. Đến tháng 7, tại căn cứ hành quân ở Mai Lộc, Quảng Trị,
Đ/Tá Trí bàn giao LĐ lại cho Tr/Tá Ngô Văn Định vừa măn khóa CHTM Cao Cấp Đàlạt, để
du học khóa Command and Staff College TQLC Hoa Kỳ. Khi trở về, Đ/Tá Trí được bổ
nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó Sư Đoàn. Tháng 12 năm 1974, Đ/Tá Định bàn giao LĐ258
cho Đ/Tá Nguyễn Năng Bảo vừa măn khóa học CHTM Cao Cấp, để đi thành lập
LĐ468. Đ/Tá Lê Đ́nh Quế, giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn từ năm
1970 đến 1975. Trước đó nhiều năm, ông giữ chức Tham Mưu Phó Hành Quân
Tiếp Vận, Chánh Văn Pḥng cho Tướng Tư Lệnh Lê Nguyên Khang và là sỉ quan tham
mưu ở Bộ Chỉ Huy khi Binh Chủng c̣n là Liên Đoàn và Lữ Đoàn.
V́ nhu cầu chiến
trường, BCH/LĐ369 được thành lập vào cuối tháng 11 năm 1969, Tr/Tá Ngô Văn
Định là vị LĐT đầu tiên. Thành lập xong vào tháng 4 năm 1970, xuất quân sang Kampuchia
tham dự cuộc hành quân Toàn thắng 42 do Quân Đoàn IV tổ chức, thay thế Đ/Tá Tôn Thất
Soạn và BCH/LĐ258 trở về hậu cứ. Cuối tháng 12, Tr/Tá Định bàn giao LĐ cho Tr/Tá
Phạm Văn Chung để về nước theo học khóa CHTM Cao Cấp Đàlạt. LĐ369
chấm dứt hành quân tại xứ Chùa Tháp cuối tháng 1 năm 1971 trở về nước
tham dự hành quân Lam Sơn 719 tại vùng Khe Sanh, Quảng Trị. Tr/Tá Chung được
vinh thăng Đ/Tá tháng 6/1971 sau cuộc hành quân Lam Sơn 810 tại mật khu Ba Ḷng. Tháng 5/1972,
Đ/Tá Chung bàn giao LĐ cho Tr/Tá Nguyễn Thế Lương để đảm nhận chức
vụ TMT Hành Quân Sư Đoàn. Sau chiến dịch tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, Tr/Tá
Nguyễn Thế Lương được vinh thăng Đ/Tá. Tháng 7/1974, Đ/Tá Lương bàn giao
LĐ cho Tr/Tá Nguyễn Xuân Phúc để về Sài G̣n theo học khóa CHTM Cao Cấp. Trung Tá Phúc LĐT
và Tr/Tá Đỗ Hữu Tùng LĐP được ghi nhận là mất tích sau cuộc triệt thoái
của Sư Đoàn khỏi băi biển Non Nước, Đà Nẵng ngày 29 tháng 3/1975.
Tiểu
Đoàn 5/TQLC được thành lập vào cuối năm 1964, hậu cứ tại Suối Lồ
Ồ (Dĩ An, Biên Ḥa), trước là Trại Thanh Nữ Cộng Ḥa dưới thời Tổng
Thống Diệm. Vị Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên là Th/tá Nguyễn Văn Tính.
Sau khi huấn luyện và bổ sung quân số và trang bị tại chỗ theo đúng bản
cấp số, TĐ5 được bàn giao cho Th/tá Dương Hạnh Phước và bắt
đầu tham dự những cuộc hành quân tại Dakto, Toumorong (Vùng 2 Chiến Thuật),
nhất là trận giải vây trại Lực Lượng Biên Pḥng Đức Cơ, nằm
sát biên giới Lào-Việt. Sau Th/Tá Phước, là các vị TĐT: Th/Tá Phạm Nhă (1967), Th/Tá Trần
Văn Hiển (1969), Th/Tá Vơ Trí Huệ (1970), Th/Tá Hồ Quang Lịch (1972), Th/Tá Đinh Xuân Lăm (1974),
Th/Tá Phạm văn Tiền (1975).
Tiểu đoàn 6/TQLC được thành lập vào tháng
8 năm 1966 bởi Th/Tá Phạm Văn Chung và Đ/U Trần Văn Hiển làm TĐP. Các Đại
Đội Trưởng gồm: Tr/U Nguyễn Đ́nh Thủy ĐĐ1, Tr/U Nguyễn Tường Huy ĐĐ2,
Tr/U Lê Văn Huyền ĐĐ3, Tr/U Lê văn Cưu ĐĐ4 và Đ/U Hoàng Trọng Độ ĐĐCH, Trưởng
Ban 3 là Tr/U Trần Đ́nh Thụy. Lễ xuất quân đưọc tổ chức vào cuối
Thu 1967. Nơi thử lửa đầu tiên là vùng x́nh lầy Đặc Khu Rừng Sát. TĐ chịu
trách nhiệm bảo vệ an ninh sông Ḷng Tào, thủy tŕnh từ sông Sài G̣n ra cửa Cần
Giờ. Tháng 4/1968 Th/Tá Chung bàn giao TĐ cho Th/Tá Nguyễn Xuân Phúc để nhận chức
CHT Trung Tâm Huấn luyện TQLC tại Rừng Cấm, Thủ Đức. Các vị Tiểu
Đoàn Trưởng TĐ6 gồm: Th/Tá Phạm Văn Chung (1966), Th/Tá Nguyễn Xuân Phúc (1968), Tr/Tá Nguyễn
Thế Lương (1968), Th/Tá Đỗ Hữu Tùng (1969), Th/Tá Trần Văn Hiển (1972), và Tr/Tá
Lê Bá B́nh (1974).
Năm 1961, TQLC chỉ có một Trung Đội Huấn Luyện đạt
tại hậu cứ TĐ2/TQLC ở Cam Ranh. Năm 1962, biến thành Đại Đội Huấn Luyện
và di chuyển về Trại Yế Kiêu, Thủ Đúc. Đến năm 1968 theo đà lớn mạnh
của Binh Chủng, được cải tổ thành Trung Tâm Huấn Luyện TQLC, tọa
lạc tại khu Rừng Cấm, Thủ Đức, cơ sở và phương tiện đầy
đủ, có khả năng huấn luyện 20 đại đội tân binh cùng một lúc,
cung cấp hàng ngàn tân binh cho các đơn vị tác chiến sau khi được huấn luyện
thuần thục. TQLCVN được tổ chức tương tự như Binh Chủng
TQLC Hoa Kỳ, dùng cùng một phương pháp huấn luyện và chiến thuật hành quân.
Tân binh TQLC trải qua 12 tuần huấn luyện căn bản tác chiến cá nhân như các
TTHL tân binh khác, c̣n được huấn luyện thêm 4 tuần về hành quân thủy bộ
và trực thăng vận. TTHL/TQLC được coi là quân trường huấn luyện tân
binh gian khổ nhất QLVNCH, tương tư như TTHL Binh Chủng Nhảy Dù. Về chương
tŕnh huấn luyện cán bộ, từ cuối năm 1957, sĩ quan TQLC được gửi
sang HK thụ huấn các khóa Sĩ Quan Căn Bản, Sĩ Quan Truyền Tin và Tham Mưu Hành
Quân Thủy Bộ ở TTHL TQLC/HK tại thành phố Quantico, tiểu bang Virginia. Một số
hạ sĩ quan được tuyển chọn gửi qua TTHL HSQ/TQLC tại San Diego tiểu
bang California, để được huấn luyện về vũ khí, tác chiến cá nhân và
cơ bản thao diễn, trở về làm cán bộ huấn luyện tại TTHL/TQLC. Các hạ
sĩ quan và binh sĩ cũng được gửi đi thụ huấn các ngành chuyên môn tại
các quân trường trong nước. Để tạo niềm kiệu hănh "Tinh Thần Binh
Chủng" (Esprit de Corps), TQLC/VN chỉ thâu nhận những quân nhân t́nh nguyện, từ sỉ
quan đến binh sĩ. Các vị CHT Trung Tâm gồm Đ/U Phạm Văn Chung, Đ/U Ngô Văn Định,
Đ/U Hoàng Văn Nam, Tr/Tá Phạm Văn Chung, sau cùng là Tr/Tá Nguyễn Đức Ân.
Bệnh xá
TQLC cũng được nâng cấp. Từ Bịnh xá Cửu Long đặt tại trại
Cửu Long, Thị Nghè, được đổi thành Bệnh Viện Lê hửu Sanh từ
ngày 1/10/1968 lúc thành lập Tiểu đoàn Quân Y TQLC và được dời về Rừng
Cấm vào năm 1969. Vị Tiểu đoàn trưởng đầu tiên và duy nhất là Y Sỉ
Trung Tá Nguyễn Văn Thế. Các Y Sỉ Trưởng bệnh viện lần lượt
là Y Sỉ Th/tá Trần mạnh Tường, Trương minh Cường và Trần công Hiệp.
Tuy nhiên, khi thành lập TĐ1 và TĐ2/TQLC năm 1955, đă có 2 vị bác sĩ tốt nghiệp Trường
Đại Học Y khoa Hà Nội t́nh nguyện về TQLC, đó là các y sĩ Tr/U Nguyễn Văn
Hoàng và Nguyễn Văn Chất, là hai anh em ruột. Sau này, 2 ông về lại Quân Y. Trung Tá Hoàng
làm Trưởng Pḥng điện tuyến TYVCH, c̣n Trung Tá Chất th́ làm Trưởng Pḥng bệnh
ngoài da TYVCH. Ông Hoàng ở Canada, c̣n ông Chất ở Florida.
Công Binh TQLC đóng góp rất
nhiều trong việc phát triển Binh Chủng qua hai nhiệm vụ chính là “Chiến đấu
và Kiến tạo”. Công Binh TQLC khởi đầu bằng Đại đội Công Binh do
Tr/U Bùi Văn Phẩm thành lập năm 1962. Tới năm 1968, Công Binh phát triển thành Liên
Đại Đội do Đ/U Cao Văn Tâm làm Liên Đội trưởng. Theo đà phát triển của
Binh chủng, tháng 4 năm 1971, Tiểu đoàn Công Binh TQLC được thành h́nh. Cuối năm
1971, Th/Tá Đỗ Văn Tỵ từ Cục Công Binh thuyên chuyển về Binh Chủng, được
bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưởng. Ngoài những công việc nguy hiểm ngoài hành quân
như thiết lập những băi ḿn chống chiến xa tại căn cứ Phượng
Hoàng, đặt ḿn phá cầu Đông Hà, Mỹ Chánh, Tiểu Đoàn Công binh c̣n thiết lập
và kiến tạo nhiều công tŕnh lớn trong Binh Chủng như góp phần xây dựng Bịnh
viện Lê hửu Sanh, biến khu căn cứ Dĩ An của SĐ1 Lục Quân HK giao lại thành
Căn Cứ Sóng Thần với những doanh trại của các Tiểu Đoàn trong Sư
Đoàn và c̣n nhiều công tŕnh khác. Công binh TQLC có mặt hầu hết trên những vùng tham chiến
của Binh Chủng.
Tiểu Đoàn Tổng Hành Dinh đưọc thành lập đầu
năm 1969, hậu thân của Đại Đội Chỉ Huy và Công Vụ Liên Đoàn năm 1956, đồn
trú tại BTL/SĐ, số 15 Lê Thánh Tôn Sài G̣n. Nhiệm vụ chính là bảo vệ an ninh cho BTL/SĐ,
quản trị quân số, quân lương, quân thực, tiếp liệu cho quân số cơ
hữu BTL và cho BCH Pháo Binh SĐ, các BCH Lữ Đoàn. Các vị TĐT từ ngày thành lập gồm: Th/Tá
Bùi Văn Phẩm (1969), Th/Tá Nguyễn Đức Ân (1970), Tr/Tá Vơ Kỉnh (1971), Tr/Tá Phạm Nhă (1972),
Tr/Tá Nguyễn Phán (1974).
Tiểu Đoàn Công Vụ là hậu thân của Đại Đội Tiếp
Liệu, được thành lập vào ngày thành lập Binh chủng 1 tháng 10 năm 1968. Năm
1972, TĐ Công Vụ được cải danh thành TĐ Yểm Trợ Thủy Bộ. Vị TĐT
tiên khởi là Th/Tá Nguyễn Xuân Phúc (4/1968), kế tiếp là Tr/Tá Ngô Văn Định (5/1969), Th/Tá
Vương Văn Tài (1/1970), Th/Tá Phạm Văn Sắt (1972), Th/Tá Ngô Nhật Thăng (1974).
Một đơn vị không thể thiếu vắng trong tất cả các cuộc hành
quân của Binh Chủng, đó lá Pháo Binh TQLC. Khởi thủy, cùng thời gian thành lập TĐ2/TQLC
cuối năm 1955, Đại Đội Trọng Pháo 106 ly được thành lập, đồn
trú tại Mỹ Tho, sau dời về đảo Bnh́ Ba trong Vịnh Cam Ranh. Nhưng đến
giữa năm 1961, đon vị này bị giải thể, được thay thế bằng
Pháo Đội Đại Bác 75 ly Sơn Pháo. Đầu năm 1962, Tiểu Đoàn Pháo Binh TQLC được
h́nh thành với 2 Pháo Đội 75 ly và 1 Pháo Đội 105 ly ṇng ngắn do Đ/U Nguyễn Văn Trước
làm TĐT và Đ/U Cao Văn Thinh làm TĐP. Các Tr/U Đoàn Trọng Cảo coi Pháo Đội A/75 ly, Tr/U
Nguyễn Hửu Hạnh Pháo Đội B/75 ly, Tr/U Nguyễn Hồ Qú Pháo Đội C/105 ly. Đầu
năm 1969, TĐ/PB thứ 2 đuợc thành lập cùng với BCH/PB/SĐ, Th/Tá Nguyễn Văn Trước
lên làm CHT, TĐT/TĐ1PB là Đ/U Đoàn Trọng Cảo, TĐT/TĐ2PB là Đ/U Nguyễn Hồ Quỳ. Sau đó vào
năm 1970, TĐ3/PB được thành lập với Đ/U Trần Thiện Hiệu làm TĐT. Đầu
năm 1975, cùng với sự thành lập LĐ468, Pháo Đội P/105 ly được thành lập
với Đ/U Nguyễn Văn Vinh Làm PĐT. TĐT/TĐ2PB sau cùng là Tr/Tá Nguyễn Trọng Đạt và TĐ3/PB
là Th/Tá Nguyễn Tấn Lộc.
Tiểu đoàn 7/TQLC được thành lập ngày 1/6/1969
tại Rừng Cấm, Thủ Đức. Sau đó TĐ di chuyển huấn luyện bổ túc
đơn vị tại TTHL Quốc gia Vạn Kiếp, Bà Rịa trong ṿng 3 tháng. Tiểu đoàn
7/TQLC sẵn sàng tham dự vào cuộc hành quân đầu tiên với Lực Lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ 211 nhằm thay thế cho Sư đoàn 9 Riverine, rút về nước,
trong vùng Kiến Ḥa, Mỹ Tho, Chương Thiện. Vị Tiểu Đoàn Trưởng đầu
tiên là Th/Tá Phạm Nhă và Th/Tá Trần Xuân Quang giữ chức TĐP. Các Đại Đội Trưởng
gồm: Đ/U Trần Ba ĐĐ1, Tr/U Nguyễn Xuân Quang ĐĐ2, Tr/U Nguyễn Văn Sử ĐĐ3, Tr/U Nguyễn
Văn Lộc ĐĐ4, và Tr/U Nguyễn Văn Ḥa ĐĐCH. Các vị Tiểu Đoàn Trưởng TĐ7 gồm:
Tr/Tá Phạm Nhă (1969), Th/Tá Vơ Trí Huệ (1971), Th/Tá Nguyễn Văn Kim (1972) và Th/tá Phạm Cang
(1974).
Tiểu Đoàn 8/TQLC được thành lập vào cuối năm 1969. Th/Tá Phạm
Văn Sắt là vị Tiểu Đoàn Trưởng dầu tiên. Sau khi bị thương tại
chiến trường Kampuchia, Th/Tá Sắt bàn giao Tiểu Đoàn lại cho Th/Tá Nguyễn văn
Phán. Vị Tiểu Đoàn Trưởng sau cùng là Tr/Tá Nguyễn Đăng Ḥa.
Tiểu Đoàn 9/TQLC
được thành lập vào tháng 3/1970. Tiểu Đoàn Trưởng là Th/Tá Nguyễn Kim Đễ,
Đ/U Dương Văn Hưng TĐP. Các Đại Đội Trưởng là: Tr/U Trần Công Giáo ĐĐ1, Tr/U
Lê Thắng ĐĐ2, Tr/U Đoàn Văn Tịnh ĐĐ3, Tr/U Nguyễn Mạnh Trí ĐĐ4, Đ/U Ngô Đ́nh Lợi ĐĐCH,
và Tr/U Hoàng Đôn Tuấn Trưởng Ban 3. Đơn vị tham dự hành quân đầu tiên tại
Kampuchia với trận giải tỏa đèo Pic Nil. Sau chiến dịch tái chiếm Cổ
Thành v àb́nh iịnh Tỉnh Quảng Trị hoàn tất, tháng 8 năm 1973, Tr/Tá Đễ bàn giao TĐ9
cho Tr/Tá Huỳnh Văn Lượm để đảm nhận chức vụ Trưởng
Pḥng 3/SĐ. Tháng 10 năm 1974, Th/Tá Lâm Tài Thạnh thay thế Tr/Tá Lượm giữ chức Tiểu
Đoàn Trưởng. Trận đánh sau cùng của TĐ9 đă xảy ra tại bờ biển Mỹ
Khê, Đà Nẵng vào chiều tối 29 tháng 3 năm 1975 khi SĐ/TQLC đă rút khỏi nơi này với
nhiều tổn thất nặng nề.
Tháng 1/1971, Sư Đoàn TQLC tiếp nhận căn
cứ của SĐ1 Lục Quân HK tại Rừng Cấm, nằm tiết giáp 3 quận Thù Đức,
Dĩ An và Lái Thiêu, cải danh thành Căn Cứ Sóng Thần. Căn Cứ có phi trường
cho phi cơ vận tải C-123 đáp được và băi đậu trực thăng cho 1
phi đoàn. Các đơn vị đồn trú, luôn cả Trại Gia Binh, Chợ Sóng Thần,
và trường Trung Học Quân Đội, Bệnh Viện Lê Hữu Sanh, có TT Huấn Luyện,
Sân Bắn, hậu cứ các BCH/LĐ147, 258, 369 v à468. Các TĐ1, 2, 3, 5, 6, 7, 8, 9, 14, 16, 18 và 3 TĐ Pháo Binh,
TĐ Công Binh, TĐQY, TDYTTB và Đại Đội Thủy Xa LVT-5. Căn Cứ c̣n có 1 pháo đội 105/TQLC
thường trực để yểm trợ cho cả 3 Quận Lái Thiêu, Dĩ An và Thủ
Đức cho đến ngày 30/4/1975. Riêng hậu cứ TĐ4 vẫn ở Vũng Tàu. Các vị CHT
Căn Cứ gồm: Th/Tá Trần Ngọc Toàn (1/1971), Tr/Tá Lê Bá B́nh (8/1972), Đ/Tá Nguyễn Năng
Bảo (11/1974), Th/Tá Trần Vệ XLTV (12/1974), Tr/Tá Nguyễn Đức Ân (1975).
Đầu
năm 1975, thực hiện kế hoạch tăng cường lực lượng Tổng
Trừ Bị của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, Sư Đoàn TQLC đă tiến hành việc
thành lập Lữ Đoàn 468 với các tiểu đoàn 14, 16, 18. Để thành lập các tiểu đoàn
trên, từ những tháng cuối năm 1974, mỗi tiểu đoàn TQLC thành lập thêm một
đại đội thứ 5 để đưa qua các tiểu đoàn tân lập. Đến
đầu tháng 1/1975, việc thành lập Lữ Đoàn 468 và 3 Tiểu Đoàn TQLC tân lập bắt
đầu thnhà h́nh. Các sĩ quan sau đây đă được bổ nhiệm vào các chức
vụ chỉ huy: Đại Tá Ngô Văn Định Lữ Đoàn Trưởng. Tr/Tá Nguyễn
Văn Cảnh, TĐT/TĐ14. Th/Tá Đinh Xuân Lăm, TĐT TĐ/16. Th/Tá Trần Ngọc Toàn, TĐT/TĐ18. Đ/U Nguyễn
Văn Vinh, Pháo Đội Trưởng Pháo Đội P/105 ly. Sau đó toàn bộ Lữ Đoàn được
không vận và thủy vận về tiếp nhận hậu cứ trong Căn Cứ Sóng Thần,
Dĩ An. Tháng 2/1975 Lữ Đoàn được tăng phái cho Tiểu Khu Long An, mở những
cuộc hành quân càn quét, t́m và tiêu diệt địch tại quận Bến Lức. Tháng 3/1975
Lữ Đoàn được không vận ra Đà Nẵng, gia nhập với SĐ/TQLC đang
hành quân tại đây. Tiếp tục hoàn tất việc thành lập TĐ18/TQLC. Lữ Đoàn
được lệnh thay thế Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù pḥng thủ khu vực đèo Hải
Vân. TĐ18 chưa hoàn tất thành lập đơn vị th́ xảy ra biến cố SĐ di tản
chiến thuật khỏi Vùng I cuối tháng 3/1975.
Với khả năng chiến đấu
hữu hiệu trên mọi chiến trường và miọ địa thế, với nghệ
thuật lănh đạo và chỉ huy vững vàng của hệ thống cán bộ các cấp
trong Binh Chủng, nên từ đầu năm 1974, Bộ TTM/QLVNCH có kế hoạch thành lập
thêm một Sư Đơàn TQLC thứ hai, nhưng chưa thực hiện được v́ cuộc
tổng tấn công của Cộng quân vào đầu năm 1975. Tuy nhiên, SĐ/TQLC đă thành lập
được 4 Lữ Đoàn và các đơn vị Yểm Trợ và Hậu Cứ, quân số
có lúc đă lên đến gần 16,000 người.
Đoạn Kết
Có thể nói, giai đoạn thành lập Binh Chủng TQLC/VN, từ năm
1954 đến 1959, là khoảng thời gian đầy khó khăn và thử thách. Được
thành lập ngay sau ngày đất nước bị chia đôi bởi hiệp định Genève
và trong giai đoạn xáo trộn chính trị tại Miền Nam, TQLC/VN đă tồn tại
giữa những khó khăn để phát triển với sự yểm trợ của Cố
Vấn HK. Khi các đơn vị c̣n đồn trú rải rác, TQLC đă cấp thời được
xử dụng trong các cuộc hành quân tảo thanh các lực lượng vơ trang Giáo phái và B́nh
Xuyên. Các vị Chỉ Huy Trưởng và Tư Lệnh của Binh Chủng TQLC: Trung Tá Lê Quang
Trọng (10/1954), Thiếu Tá Phạm văn Liểu (1/1956), Đại Úy Bùi Phó Chí XLTV/CHT (8/1956),
Thiếu Tá Lê Như Hùng (10/1956), Thiếu Tá Lê Nguyên Khang (1960), Trung Tá Nguyễn Bá Liên (11/1963),
Đại Tá Lê Nguyên Khang (2/1964) và Đại Tá Bùi Thế Lân (5/1972), đă dồn mọi nỗ
lực, cải tổ những đơn vị Biệt Kích, các Đại Đội Yểm Trợ
và Hải Thuyền, dưới quyền chỉ huy của sĩ quan Pháp, thành một Binh Chủng
hùng mạnh, có khả năng chiến đấu đa dạng, tương tự như Lực
Lượng Thủy Bộ Xung Kích TQLC/HK. Cùng với các Cố Vấn HK tận tâm và kinh nghiệm,
Binh Chủng TQLC/VN trở thành một trong những đại đơn vị có cơ cấu
tổ chức chặt chẽ, được huấn luyện thuần thục, chịu đựng
dẻo dai, trang bị vũ khí tối tân, cán bộ và quân số đầy đủ nhất
của QLVNCH. Bên cạnh các Tự Lệnh TQLCVN ngay từ thời gian đầu thành lập
Binh Chủng có những Cố Vấn Trưởng ưu tú, đầy khả năng, tiêu
biểu cho Binh Chủng TQLC Hoa Kỳ, đó là: Tr/Tá Victor J. Croizat (8/1954), Tr/Tá William N. Wilkes Jr.
(6/1956), Tr/Tá Frank N. Wilkinson Jr. (6/1958), Tr/Tá Clifford J. Robichaud Jr. (6/1960), Tr/Tá Robert E. Brown (8/1961),
Tr/Tá Clarence G. Moody Jr (10/1962), Tr/Tá Wesley C. Noren (10/1963), Đ/Tá William Nesbit P. Nesbit (9/1964), Đ/Tá John A.
McNeil (7/1965), Đ/Tá Nels E. Anderson (7/1966), Đ/Tá Richard L. Michael Jr. (7/1967), Đ/Tá Leroy V. Corbett (7/1968), Đ/Tá
William M. VanZuyen (7/1969), Tr/Tá Alexander P. McMillan (6/1970), Đ/Tá Francis W. Tief (7/1970), Đ/Tá Joshua W. Dorsey III
(7/1971), và Đ/Tá Anthony Lukeman (7/1973-4/1975).
Trong cuộc chiến Mùa hè năm 1972, Bộ Tư
Lệnh Sư đoàn TQLC được không vận từ Sài G̣n ra Huế để trực
tiếp chỉ huy toàn bộ các đơn vị trực thuộc và tăng phái. Đầu tháng
5/72, Tr/Tướng Lê nguyên Khang, sau 12 năm chỉ huy Binh chủng từ 4/1960, đă bàn giao
chức vụ Tư Lệnh SĐ lại cho Đại Tá Tư Lệnh Phó Bùi Thế Lân. Đ/Tá
Lân xuất thân Khóa 4 Trường Vỏ Khoa Thủ Đức, phục vụ trong Binh Chủng
từ năm 1956. Ông được vinh thăng Chuẩn Tướng cuối tháng 5/72, thăng
Thiếu Tướng tháng 2 năm 1975 và giữ chức Tư Lệnh TQLC cho đến ngày
30/4/1975.
Cuộc di tản chiến thuật khỏi Vùng I Chiến Thuật trong
tháng 3/1975 đă gây tổn thất nặng nề về nhân mạng cũng như về trang
bị cho nhiều đơn vị của SĐ/TQLC. Phần lớn lực lượng của
LĐ147 bị quân CS vây hăm và bắt làm tù b́nh dọc bờ biển gần cửa Thuận
An, Huế. Một số rất ít quân nhân của hai Lữ Đoàn 258 và 369 lên được
tàu Hải Quân tại bải biển Non Nước, Đà Nẵng. Chỉ có LĐ468 với
các TĐ 8, 14, 16 lên tàu Hải Quân với toàn bộ quân số và trang bị tại làng Cùi, dưới
chân đèo Hải Vân trong đêm 28 rạng 29 tháng 3. Các thành phần thuộc Bộ Tham Mưu
SĐ, các đơn vị yểm trợ như các Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ,
Công Binh, Quân Y, Truyền Tin v.v... cũng đă bị tổn thất rất nặng. Sau khi tạm
dừng quân ở Cam Ranh, SĐ được lệnh tiếp tục di chuyển về tập
trung tại Vũng Tàu để được tái trang bị quân dụng và vũ khí các loại.
Ngày 9 tháng 4, SĐ/TQLC được lệnh Bộ TTM tăng phái hành quân cho BTL/QĐ III, nhiệm
vụ pḥng thủ ṿng đai Đông Bắc Sài G̣n, khu vực Biên Ḥa và Long B́nh. Các Cọp Biển
VN giữ vững pḥng tuyến cuối cùng này, và họ đă chỉ buông súng theo lệnh của
Tổng Thống Dương Văn Minh, vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH vào sáng ngày 30 tháng
4, đánh dấu trang sử cuối cùng của Binh Chủng TQLC/VN sau hơn 20 năm chiến
đấu bảo vệ nền Độc Lập, Tự Do và Lănh Thổ, Lănh Hải của Miền
Nam Việt Nam.
|