Không bao giờ quên những người Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
(Mến tặng các chiến hữu, đồng bào, nhất là những
người bạn trẻ của tôi)
Mọi sự qua rồi nên cho qua luôn, nhưng những Bài Học Lịch Sử quư giá th́
không được phép quên, nhất là đối với những quốc gia hùng cường
muốn “ làm chủ “ thế giới hay lănh đạo một Châu Lục ( Continent
), cũng như đối với những quốc gia nhược tiểu khi kết bạn
đồng minh, sống chết với nhau trong những cuộc đấu tranh sinh tồn.
Ở
đây, tôi muốn vinh danh các chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa qua những ḍng
ngắn ngủi này, và nói lên một vài nét nhỏ để chứng minh rằng: nhiều kẻ,
có cả những nhân vật lănh đạo quốc gia, những nhân vật cầm đầu
Bộ máy chiến tranh của những cái gọi là “Superpowers” đă lẩm cẩm,
thiếu hiểu biết, hay cố t́nh với ác tâm, ác ư bôi nhọ Quân Đội Việt Nam Cộng
Ḥa. Họ đă bị ảnh hưởng mạnh mẽ của những vụ xuống đường
biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam của giới sinh viên Đại Học, mà cái tổ
phát xuất của nó từ Trường Đại Học Kent State Unuversity, do 1 Giáo Sư, cán
bộ của Đảng Cộng Sản Mỹ, lănh đạo, chỉ huy theo kế hoạch
của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Cộng Sản Quốc Tế. Bởi v́ họ
biết rằng đánh thắng Hoa Kỳ trên chiến trường Việt Nam th́ khó, nhưng
đánh thắng Hoa Kỳ tại Quốc Hội, trên đường phố, ở các trường
Đại Học, trên mặt trận truyền thông th́ không khó lắm. Bởi thế cho nên công
cuộc lănh đạo sinh viên biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam, góp phần đập
tan tinh thần chiến đấu, quyết thắng của Quân Đội Mỹ - vốn có từ
xưa - trong cuộc chiến Việt Nam phải được giao cho 1 Giáo Sư Đại Học
có uy tín và là cán bộ cao cấp của Đảng Cộng Sản Mỹ. Sự việc này chỉ
được người ta biết đến khi vị Giáo Sư lănh đạo phong trào
sinh viên biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam này từ trần, có Tổng Bí Thư
Đảng Cộng Sản Mỹ dự tang lễ, đọc điếu văn, nêu cao thành tích
của người quá cố, đă góp công sức vào việc chấm dứt chiến tranh
Việt Nam theo đường lối, kế hoạch của “Phong trào Cách Mạng Vô Sản
thế giới”.
Nhiều người đă đánh giá toàn thể Quân Đội Việt
Nam Cộng Ḥa qua hành độỳng xấu xa của một vài Sĩ Quan cao cấp đích
thân, hay cho vợ con, đệ tử lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, nhất là giai
đoạn Mỹ đổ quân tác chiến vào Việt Nam (sai lầm chiến lược)
để buôn lậu, làm áp-phe tiền bạc bằng nhiều cách. Họ đánh giá Quân Đội
VNCH qua h́nh ảnh tan ră của nhiều đơn vị quân đội vào những ngày cuối
cùng của cuộc chiến, mà kẻ gây ra t́nh trạng thê thảm này đích danh thủ phạm
là Ông Nguyễn Văn Thiệu, một Tướng Lănh làm Tổng Thống kiêm Tổng Tư
Lệnh Quân Đội VNCH, ra lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Khu 2,
và Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I - một Tướng Lănh từng
được kể vào hàng Danh Tướng - phải bỏ Quân Khu I lúc chưa đánh nhau
chi cả và các đơn vị quân đội của 2 Tướng này đang sẵn sàng chờ
địch tiến đánh, với tinh thần rất cao, như họ đă từng đánh
bại quân cộng sản trên lănh thổ 2 Quân Khu này. Ông Thiệu ra lệnh bỏ 2 Quân
Khu này khi chưa chạm địch để làm áp lực, lôi kéo người bạn Đồng
Minh khổng lồ (đang bỏ đi bằng mọi giá) quay trở lại cứu Nam Việt
Nam. Nếu không, “Tiền đồn chống cộng sản của Mỹ tại Đông
Nam Á Châu sẽ sụp đổ”.
Tổng Thống Mỹ Richard Nixon phải hứa
với nhân dân Mỹ là chấm dứt chiến tranh Việt Nam, đem quân đội Mỹ
trở về trong danh dự, trả người thân về với gia đ́nh của họ.
Qua
trung gian của Tổng Thống Hồi Quốc, Ông Nixon cho Cố Vấn Henry Kissinger (một
nhân vật chính trị, ngoại giao quỷ quyệt, độc ác và tàn nhẫn) dọn đường
cho Ông Nixon gặp Mao Trạch Đông, lănh tụ Cộng sản Trung Quốc. Họ Mao với
sức mạnh của Sư Phụ, với uy thế của Ông Thầy bao nhiêu năm trợ
giúp cố vấn, vũ khí chiến tranh, lương thực... đă ra lệnh cho cộng
sản Hà Nội không được chơi trội, bắt bí phái Đoàn Mỹ tại Hội
Nghị Paris, dọa đánh cho Mỹ phải chạy mà không có “Hiệp Định ngưng
bắn - Agreement of cease- fire” chi cả.
Họ Mao đă cứu Ông Nixon, nhưng Ông
Nixon phải đền ơn xứng đáng:
1/- Vận động để cho Cộng
Ḥa Nhân Dân Trung Hoa Quốc ngồi vào cái ghế Hội Viên Thường Trực của Hội
Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc với quyền Phủ quyết cuối năm 1971, trước
khi Ông Nixon gặp Họ Mao vào đầu năm 1972, mặc dầu Họ Mao đă chiếm
hết lục địa Trung Quốc, thiết lập chính quyền, cai trị cả tỉ
dân từ năm 1949. C̣n Ông Quốc Dân Đảng Trung Hoa th́ vẫn là bạn của Mỹ nhưng
phải rời khỏi cái ghế đó, chạy ra đảo Đài Loan.
2/- Ông Nixon phải
bằng mọi cách, nhưng kín đáo, bán cho Họ Mao những vũ khí, kỹ thuật chiến
tranh tối tân hiện đại nhất lúc đó để Trung Quốc đủ sức
“đánh nhau tay đôi” với Liên Xô khi cần, v́ Liên Xô đă kết án, và đe dọa
trừng trị Họ Mao về nhiều tội:
* Bất phục tùng Trung Tâm Lănh Đạo
phong trào cộng sản thế giới là Điện Kremlin ở Moscow.
* Dám thiết lập
Tư Tưởng Mao Trạch Đông, trái nghịch với Học Thuyết Marx - Lenin là: Thiết
lập nền vô sản chuyên chính kiểu Trung Quốc: lấy Nông Dân (đại đa số
dân Trung Quốc) làm giai cấp lănh đạo, thay v́ giai cấp Công Nhân lănh đạo, như
Học Thuyết Marx-Lenin, đă được dùng làm Phương Châm Đấu Tranh cho Phong Trào
Cộng Sản Toàn Cầu.
* Muốn thống trị Á Châu bằng sức mạnh của
Trung Quốc và Tư Tưởng Mao Trạch Đông, tách ra khỏi sự lănh đạo của
điện Kremlin ở Moscow. Mao không chấp nhận “Kết hợp chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản”, theo luận điểm của
Lenin về khả năng tiến lên Chủ Nghĩa Xă Hội không qua giai đoạn phát triển
Tư Bản Chủ Nghĩa (Lenin's thesis on the possibility of advancing to Socialism by passing the stage of
capitalist development) v́ Liên Xô đă có cơ sở công nghiệp trong khi Trung Quốc chỉ có “Con
trâu đi trước cái cầy”.
Như thế mới gọi là tư tưởng
Mao Trạch Đông, chớ Hồ Chí Minh, lănh tụ cộng sản Hà Nội chỉ có biết
tṛ “Đu dây” theo voi ăn bă mía cả 2 phía Liên Xô và Trung Quốc th́ làm ǵ có cái gọi là
Tư Tưởng Hồ Chí Minh như cộng sản Hà Nội vẫn ồn ào, ba hoa về
Tư Tưởng Hồ Chí Minh.
Nhiều Sĩ Quan cao cấp của VNCH trông cảnh
quân sĩ dưới quyền bị tan ră một cách thê thảm, đau đớn, trông cảnh
dân chúng cả triệu người trên đường tháo chạy, phải làm bia lănh đạn
trọng pháo, hỏa tiễn của Liên Xô và Trung Quốc tiêu diệt một cách tàn bạo,
kinh hoàng, dă man mà thấy xót xa trong tim, trong ḷng, phát điên phát khùng lên v́ sự khờ dại,
của ông Nguyễn Văn Thiệu. Là Tướng Lănh, là Tổng Thống, là Tổng Tư
Lệnh Quân Đội mà Nguyễn Văn Thiệu không hiểu rằng: Những pḥng tuyến
đầu tiên bị tan ră, quân đội chưa đánh mà bỏ chạy tán loạn cùng hàng
triệu dân chúng th́ hậu quả quân sự, chính trị, tâm lư của Nam Việt Nam sẽ
ra làm sao! Họ đă cố t́nh quên đi tinh thần chiến đấu của Quân Đội
Việt Nam Cộng Ḥa trong dịp Tết Mậu Thân (1968). Lúc đó quân cộng sản được
trang bị cá nhân, tất cả bằng súng tiểu liên xung kích AK-47 của Liên Xô, Tiệp Khắc,
cùng với lực lượng vơ trang của “Mặt Trận Giải phóng miền Nam”,
lợi dụng yếu tố bất ngờ khi phản bội thỏa hiệp ngưng bắn
trong dịp Tết thiêng liêng cổ truyền của dân tộc Việt Nam, th́nh ĺnh mở cuộc
“Tổng tấn công” vào hầu hết các thành phố, thị trấn của Nam Việt
Nam. Trong khi đó Quân Đội VNCH hầu hết chỉ được trang bị bằng
súng trường bán tự động Garant M-1, Carbin M-1 và tiểu liên loại nhẹ Carbin
M-2 của quân đội Mỹ sử dụng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
V́
bất ngờ cho nên chúng đă kiểm soát được một số lănh thổ có tính cách
chiến lược tại Quân Khu 2 và Quân Khu I, đồng thời tấn công mưu toan đánh
chiếm luôn Thủ Đô Sài G̣n. Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng tại Hà Nội ra
lệnh phải giữ đất đă chiếm bằng mọi giá để đưa dân
chúng Nam Việt Nam vào 1 cuộc “Tổng nổi dậy”, cướp chính quyền.
Do đó, khi chiến trường đă được quân đội VNCH giải tỏa,
quân cộng sản bị đánh bại, phải bỏ chạy, phóng viên báo chí, truyền thanh,
truyền h́nh đi theo quân đội mới thấy những xác chết của lính cộng
sản bị xiềng chân vào công sự chiến đấu, các ổ bích kích pháo, súng đại
liên. Cộng sản Hà Nội không bao giờ ngờ được rằng Quân Đội
VNCH có thể đánh bật chúng ra khỏi thành phố Huế sau 1 thời gian cộng sản
chiếm đóng, toan tính thành lập chính quyền tại một thành phố giáp lưng với
hậu phương to lớn của chúng ở bên kia sông Thạch Hăn, Quảng Trị, hay vĩ
tuyến 17. Vậy mà cộng sản đă phải bỏ chạy khỏi thành phố Huế
trong chiến dịch lịch sử Tết Mậu Thân (1968), chỉ kịp lùa theo chúng hàng
ngàn sĩ quan, binh sĩ, nhân viên chính quyền, đảng phái chính trị do chúng bắt được
tại Huế, để dẫn đi tàn sát, chôn sống tập thể theo kiểu Hitler giết
người Do Thái, Staline giết người Ba Lan, nhưng ghê tởm hơn, v́ chúng giết
bằng đạn AK, bằng dao găm, mă tấu, c̣n sống cũng đạp xuống hố
chôn luôn hàng chục, hàng trăm người 1 lúc.
Bốn năm sau, 1972, nắm được
tinh thần “Bỏ cuộc, chạy làng” của tay “Sen đầm quốc tế”
khổng lồ, nhưng đă quá mệt mỏi, chán chường với cuộc chiến
tranh không thể thắng ở tiền tuyến bằng súng đạn tối tân v́ nó chẳng
có mặt trận, chiến tuyến nào rơ ràng để ḿnh chủ động sử dụng
“ưu thế hỏa lực- Superiority of firepower” được cả, mà hậu
phương th́ rối loạn, nát bấy v́ biểu t́nh, phản đối chiến tranh,
đốt cờ, đốt thẻ trưng binh, Quốc Hội căi nhau như mổ ḅ về
chuyện có hay không viện trợ chiến tranh cho người bạn đồng minh để
giữ vững cái “Tiền đồn chống công ở Á Châu”. Thế là cộng
sản Hà Nội lại áp dụng bài học cũ, 18 năm về trước, đă dùng
chiến thắng Điện Biên Phủ để đánh gục người Pháp tại Ḥa Hội
Geneva.
Năm 1972 cũng thế, Hà Nội tung vào miền Nam những Sư Đoàn tinh nhuệ,
thiện chiến nhất đă từng đánh tan 2 Binh Đoàn Lưu Động (Groupements mobililes)
của Pháp tại chiến trường Bắc Kạn-Lạng Sơn hồi 1950, sau khi sư
phụ Trung Quốc đă chiếm xong toàn thể lục điạ, bắt sống 2 Binh Đoàn
Trưởng ( Commandants de Groupements mobiles): Đại Tá Le Page và Trung Tá Charton, đưa những
Sư Đoàn lừng danh từng đánh thắng, dứt điểm người Pháp tại chiến
trường Điện Biên Phủ năm 1954 bằng những trận đánh vũ băo theo lối
“Chiến tranh quy ước -Conventional War” hẳn hoi. Hà Nội nhắm đánh
vào Quân Khu I, lănh thổ địa đầu của Nam Việt Nam, cho 15 ngàn quân của Sư
Đoàn 304 tràn qua vĩ tuyến 17, dưới sự yểm trợ của pháo binh và hỏa lực
pḥng không trang bị hỏa tiễn địa - không SAM-2 của Liên Xô, sau 3 ngày đêm đội
những trận băo lửa Pháo Binh và Hỏa Tiễn. Sư Đoàn 3 Bộ Binh VNCH là Sư
Đoàn mới thành lập, trong đó chỉ có Trung Đoàn 2 Bộ Binh ṇng cốt là tương đối
thiện chiến, c̣n hầu hết là tân binh, lính mới, và vị Tư Lệnh Sư Đoàn
là Trung Đoàn Trưởng mới được vinh thăng Chuẩn Tướng th́ làm sao mà
chịu cho nổi sức tiến quân của cộng sản ? Tại sao Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Tư Lệnh Quân Đội VNCH, Đại Tướng Cao Văn
Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, lại cho Sư Đoàn 3 Bộ Binh mới thành lập trấn
giữ cái cửa ngơ ngăn chặn quân cộng sản Bắc Việt ngay sát vĩ tuyến
17 như thế này ? Có ai xúi dại 2 ông Thiệu và Viên làm như thế hay không ?
Cộng
sản đánh chiếm Tỉnh Lỵ Quảng Trị, mở đường xuống Huế
rồi sẽ phối hợp với các đơn vị chính quy Bắc Việt, xâm nhập
từ đường ṃn Hồ Chí Minh, cũng như các lực lượng vũ trang địa
phương, bộ đội chủ lực của Tỉnh và Huyện, dứt luôn Quân Khu
1. Ngoài mục tiêu quân sự, cộng sản c̣n nhắm vào những mục tiêu chính chính
trị và ngoại giao to lớn, quan trọng hơn: Cuộc Ḥa Đàm tại Paris để quân
đội Mỹ ra đi trong danh dự, không đến nỗi bị cộng sản quốc
tế và Hà Nội đánh cho phải chạy mà không có Hiệp Định ngưng bắn chi cả.
Tỉnh
Lỵ Quảng Trị bị chiếm, cộng sản cho xe tăng T-54 của Liên Xô dẫn
đầu, Bộ Binh và cơ giới kéo xuống Huế theo quốc lộ I, được
pháo binh và hỏa tiễn 122 ly của Trung Quốc dọn đường. Quân cộng
sản tiến về Huế như đi vào chỗ không có người. Dân chúng Quảng Trị
thoát chết khi qua khỏi “Đại Lộ Kinh Hoàng” tràn xuống Huế, trong khi dân
chúng Huế cũng xô nhau bỏ chạy v́ dân ở đây làm sao quên được vụ tàn
sát ghê gớm với những mồ chôn tập thể trong dịp Tết Mậu Thân - 1968!
Tướng
3 sao Hoàng Xuân Lăm, Tư Lệnh Quân Đoàn I- Quân Khu I (người được nhiều nhân vật
chính trị cũng như quân sự trong và ngoài nước đánh giá: chỉ là 1 Tướng
Tư Lệnh Sư Đoàn loại trung b́nh, chớ không đủ khả năng giữ chức
Tư Lệnh Quân Đoàn trong giai đoạn địch quân tiến như vũ băo thế này)
hoảng hốt, không biết phải đối phó ra sao, chỉ biết cầu cứu liên
tục về Dinh Độc Lập ở Sài G̣n với tinh thần chủ bại. Tuyến
đầu bị phá vỡ th́ địch quân sẽ thừa thắng xông lên dễ dàng với
tinh thần quyết chiến, quyết thắng. C̣n phía ta đă rút lui, tan vỡ bỏ
chạy th́ tinh thần quân đội và dân chúng rối loạn ra sao, ai cũng biết rồi.
Giới
truyền thông ngoại quốc, nhất là ở Mỹ đă đánh giá Quân Đội và các cấp
chỉ huy của Quân Lực VNCH qua những Tướng Lănh như vậy đó! Cho tới
khi đài phát thanh loan báo: Tướng Ngô Quang Trưởng được điều động
từ Quân Khu 4 ở trong Nam ra, nắm chức Tư Lệnh Quân Đoàn I và Vùng I chiến thuật
thay thế Tướng Lăm, dân chúng đang hỗn loạn bỏ chạy khỏi thành phố
Huế cùng đồng thanh la lên “Tướng Ngô Quang Trưởng về làm Tư Lệnh
Quân Đoàn I, bảo vệ Huế và chiếm lại Quảng Trị th́ bà con không có chạy đi
đâu nữa cả! “Ḷng dân tin tưởng mănh liệt là thế!” Tướng
Ngô Quang Trưởng xuất thân Khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, gốc binh chủng
“Thiên Thần Mũ Đỏ Nhẩy Dù”, nhưng lúc này đă mang lon 3 sao v́ những chiến
công ngoài mặt trận, và luôn luôn ḥa đồng với các Sư Đoàn Bộ Binh dưới
quyền nên Tướng Trưởng luôn mặc quân phục tác chiến của Bộ Binh,
thay v́ quân phục Nhẩy Dù. Có lẽ Tướng Trưởng nghĩ rằng: Bộ
áo không làm thành Thầy Tu, Tướng giỏi không cần phô trương bên ngoài mà cần
phải đánh thắng trên trận địa và được ḷng kính phục của quân
sĩ. Tướng Ngô Quang Trưởng về Huế, chỉnh đốn lại quân ngũ,
tái phối trí lực lượng, kêu gọi dân chúng an tâm, xin tăng phái lực lượng
Tổng trừ Bị: Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến từ Sài G̣n bay ra. Thế
rồi trước sân cờ Phú Văn Lâu, Cổ Thành Huế, Ông đă thề trước
ba quân “Sẽ chiếm lại thành phố Quảng Trị trong thời gian ngắn nhất”
như thời Nhà Trần, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, khi ra quân đă
cầm gươm chỉ xuống sông Bạch Đằng mà thề trước Tướng Sĩ:
“Nếu phen này không phá tan được quân Mông Cổ th́ ta sẽ không c̣n trông thấy
con sông này nữa! Ôi, Lịch Sử dân tộc Việt Nam, làm sao quên được những
giờ phút bi hùng và oanh liệt như thế này! Dưới quyền Tư Lệnh của
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng, Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa đă anh dũng chiến
đấu, chặn đứng những Sư Đoàn thiện chiến, lẫy lừng nhất
của cộng sản Hà Nội, trước sự ngỡ ngàng của dư luận trong
và ngoài nước. Cổ Thành Quảng trị đă được chiếm lại. Quân cộng
sản đành tháo chạy trở ngược về bên kia vĩ tuyến 17, giống như
năm 1953, Danh Tướng MacActhur của Hoa Kỳ đă phản công, đánh bật quân cộng
sản Bắc Hàn ra khỏi những vùng chiếm đóng trên lănh thổ Nam Hàn, bỏ chạy
bán sống bán chết trở ngược về phía Bắc vĩ tuyến 38.
Tướng
Ngô Quang Trưởng và quân sĩ của Ông đă bảo vệ được Huế, chiếm
lại thành phố Quảng Trị đúng như lời thề trước sân cờ Phú Văn
Lâu bữa nào. Đó! Tinh thần chiến đấu của Quân Đội VNCH là như thế
đấy! Tướng Lănh của Quân Đội VNCH có những người như thế đó!
Tờ
báo Time Tạp Chí cỡ lớn của Hoa Kỳ, tôi có trong tay hàng tuần, một lần đă
đăng những ḍng cảm nghĩ của Đại Tướng 4 sao Hoa Kỳ, Norman Schwarzkopf,
Tư Lệnh Chiến Dịch” Băo Sa mạc - Desert storms” chinh phạt hung thần
Saddam Hussein của xứ Iraq đầu thập niên 1990, đại để như sau “Hồi
c̣n chiến đấu ở Khe Sanh thuộc lănh thổ Quân Khu I Việt Nam Cộng Ḥa, với
tư cách là 1 Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Nhẩy Dù của Hoa Kỳ, tôi đă học được
ở Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I VNCH rất nhiều kinh
nghiệm quư báu trong nghệ thuật chỉ huy cũng như tác chiến.
Những kinh
nghiệm đó đă giúp tôi rất nhiều, ngay cả mấy chục năm sau, trong Chiến
thắng “Băo Sa Mạc - Desert Storms' Victory”. Nhiều nhân vật chính trị, truyền
thông tại sao không biết những điều này khi nói về Quân Đội VNCH? Họ
ngu dốt hay mang đầy ác ư trong đầu!
Rồi đến chiến trường
An Lộc, Tỉnh B́nh Long. Ở Ḥa Hội Paris, Lê Đức Thọ và Xuân Thủy, Ủy
Viên Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng cộng sản, ra mặt lấn áp Ngoại
Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger trong các buổi mật đàm qua thế mạnh của
quân cộng sản tại Miền Nam, trong khi Hoa Kỳ muốn rút chân cho mau Khỏi “Vũng
lầy kinh khủng” này. Đại Tướng cộng sản Vơ Nguyên Giáp, “người
hùng Điện Biên Phủ”, Bộ Trưởng Quốc Pḥng của cộng sản đă
tuyên bố trên đài phát thanh Hà Nội “Nhân dân Việt Nam đă đánh gục 3 đời
Tổng Thống Hoa Kỳ, và sẽ đập tan chính quyền Nixon bằng 1 cuộc chiến
thắng hoàn toàn - Defense Minister Vo Nguyen Giap says that the people of Vietnam have defeated 3 U.S. Administrations
and are about to complete victory over President Nixon...” Với cái khí thế như vậy, xe tăng
T-54 của cộng sản đă tràn ngập, làm chủ t́nh h́nh thị xă An Lộc, dẫn
theo sau những đơn vị bộ binh thiện chiến, danh tiếng nhất, sau khi những
trận băo lửa pháo binh đă quét dọn sạch sẽ, không để lại những ǵ
có thể sống sót. Các chiến sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh VNCH cùng 1 số đơn
vị bạn c̣n lại của địa phương B́nh Long đă chiến đấu vô
cùng anh dũng, ác liệt, giữ từng tấc đất, từng góc phố, ngơ hẻm
để có chỗ đứng hay nằm mà chiến đấu v́ ngưng chiến đấu
tức là chết. Mặt trận An Lộc làm rung động thế giới, làm rối
loạn không khí ḥa đàm tại Paris vốn đă nghiêng hẳn thế thuận lợi về
phía cộng sản.
Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh cũng như Hà Nội muốn An Lộc
phải thất thủ kinh hoàng như Điện Biên Phủ ngày nào. Những tay cá độ
quốc tế đă dám đánh 100 ăn 1 là An Lộc sẽ thất thủ để cho cộng
sản tiến quân về Sài G̣n, đập tan chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ngay trong
năm 1972. Tướng 3 sao (Général de Division) Vanuxem của Pháp, Tư Lệnh quân đội
Pháp tại Bắc Phi, người đă từng giữ chức vụ “Commandant de la Zône
Sud du Nord Vietnam - Tư lệnh Quân Khu tả Ngạn Sông Hồng Hà” thời kỳ Điện
Biên Phủ thất thủ tại Việt Nam- 1954 ố khi trả lời phỏng vấn của
báo chí, truyền thanh, truyền h́nh, đă nói: Quân Đội VNCH không thể nào giữ nổi
An-Lộc. Có lẽ Tướng Vanuxem chưa quên được cảnh pháo binh cộng
sản bất ngờ hiện diện tại các đỉnh đồi chung quanh ḷng chảo
Điện Biên Phủ (do trâu, voi, người kéo lên, dân công khiêng vác từng bộ phận) dội
như mưa băo suốt ngày đêm, làm tê liệt hoàn toàn các giàn trọng pháo hùng hậu của
Pháp cho đến nỗi Đại Tá Pirotti, chỉ huy trưởng pháo binh của Pháp tại
chiến trường này quá thất vọng và khủng khiếp, phải mở chốt lựu
đạn mà tự sát. Có lẽ Tướng Vanuxem chưa quên được cái cảnh
những Sư Đoàn cộng sản cuồng tín, đông như kiến cỏ, theo chiến thuật
“Biển Người “ của Thống Chế Lâm Bưu Nguyên Soái Hồng Quân Trung
Quốc, tràn qua các băi ḿn, đạp nát các công sự pḥng thủ, các hàng rào kẽm gai chằng
chịt, tràn xuống các giao thông hào, đạp lên xác chết của lính Pháp, Bắc Phi và cả
cộng sản, phối hợp với quân cộng sản từ dưới đất chui
lên từ các đường hầm đă được máy móc, cơ giới của Trung
Quốc đào bới ngày đêm trong lúc pháo binh hỏa tiễn Trung Cộng liên tục nổ
rầm trời. Chắc Tướng Vanuxem liên tưởng đến cái cảnh Tư
Lệnh chiến trường Điện Biên Phủ, Tướng De Castries, mặt mũi hốc
hác, bị quân cộng sản bắt sống ngay tại căn hầm Chỉ huy, cùng với
toàn thể Sĩ Quan Bộ Tham Mưu của Ông để rồi chiến tranh Việt-Pháp
kể như chấm dứt từ chỗ này, mà phần thất bại tất nhiên thuộc
về phía người Pháp. Tướng Vanuxem tin chắc là Quân Đội Việt nam Cộng
Ḥa không thể nào giữ nổi An Lộc một khi Hà Nội đă quyết định biến
An Lộc thành một thứ Điện Biên Phủ để giành thế chủ động trên
bàn Hội Nghị tại Paris, một khi cộng sản Hà Nội có Liên Xô và Trung Quốc đứng
sau lưng, nhất định bắt người Mỹ phải “nhắm mắt lại
mà kư vào Hiệp Định Paris” như cộng sản đă bắt người Pháp phải
làm như thế ở Hội nghị Geneva 1954. An Lộc đă bị thế giới
coi như đă bị mất vào tay cộng sản. Thế mà, khi Liên Đoàn 81 Biệt Kích
Dù, hợp lực với Biệt Động Quân và 1 số đơn vị Bộ Binh VNCH kéo tới
đánh những trận phản công sấm chớp, lở đất long trời th́ xe tăng
T-54 Sô Viết, cũng như Bộ Binh cộng sản từng làm mưa làm gió trước
đó trên vùng đất An Lộc tan hoang, trơ trụi, đành phải mở đường
máu mà tháo chạy mặc dù lệnh của Hà Nội: phải giữ An Lộc đă chiếm
bằng mọi giá. An Lộc vẫn c̣n đó, không thất thủ như Điện Biên Phủ
năm 1954. Cả thế giới kinh ngạc. Tướng 3 sao của Pháp Vanuxem cùng dân
cá độ quốc tế đă thua đậm trong keo này. Tướng Nguyễn Văn
Thiệu, Tổng Thống Đệ Nhị Việt Nam Cộng bỗng dưng có được
giờ phút vinh quang và oai hùng nhất trong cuộc đời binh nghiệp cũng như chính
trị của ông: đáp trực thăng xuống ngay chiến trường An Lộc giữa
tiếng hoan hô vang dậy không ngớt của của các chiến sĩ VN Cộng Ḥa vừa
tái chiếm An Lộc, trong khi tiếng đại bác của 2 bên, tiếng hỏa tiễn 122
ly của Trung Cộng vẫn c̣n nổ vang quanh vùng, và An Lộc vẫn c̣n mù mịt, khét lẹt
mùi lửa đạn.
Đó! Tinh thần chiến đấu của Quân Đội VN Cộng
Ḥa là như thế đấy! Và c̣n biết bao nhiêu trận đánh lẫy lừng khác trên
khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Một bài báo có hạn làm sao kể hết!
Năm
1975, Cộng sản đánh chiếm Ban Mê Thuột, cũng chẳng khác ǵ cộng sản đánh
chiếm Huế năm 1968, đánh chiếm Quảng Trị, kiểm soát An Lộc năm 1972
bao nhiêu. Vậy th́ khi Ban Mê Thuột mới rơi vào tay giặc trong sự bất ngờ,
tại sao Ông Thiệu lại hạ lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú phải bỏ
Quân Khu 2, cho Tướng Ngô Quang Trưởng phải bỏ Quân Khu I, trong khi hai Tướng
Tư Lệnh này đang có trong tay 6 Sư Đoàn Bộ Binh, hầu hết đều thiện
chiến, chưa kể đến các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, mấy
chục Tiểu Đoàn Địa Phương Quân, bao nhiêu là đơn vị yểm trợ chiến
đấu, đó là chưa kể đến hỏa lực yểm trợ của Hải Quân,
Không Quân, lực lượng Tổng trừ Bị của Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục
Chiến, tất cả đều đang sẵn sàng chiến đấu v́ chỉ có chiến
đấu hay là chết mà thôi. Ông Thiệu hạ lệnh rút bỏ 2 Quân Khu cửa ngơ, địa
đầu của Nam Việt Nam như vậy để làm ǵ?- Có nhận lệnh từ đâu
không? - Để tạo nên một sự tan ră, hỗn loạn của cả một lực lượng
Quân Đội to lớn, hùng mạnh như nói ở trên, trong khi tất cả đang sẵn sàng
chiến đấu, chiến đấu để sống c̣n. Sự tan ră hỗn loạn
này kéo theo sự hỗn loạn tràn ngập của hàng triệu dân chúng đổ vào Quân Khu
3, bao quanh Thủ Đô Sài G̣n. Trong t́nh thế đó th́ Quân Khu 3 c̣n đánh đấm ǵ được
nữa? Quân Cộng sản chẳng cần đánh, mà cứ như đi vào chỗ không có
người. Nên nhớ rằng, khi gặp sự quyết chiến của Sư Đoàn 18
Bộ Binh VNCH, với sự tăng cường của một số đơn vị bạn,
mà Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng đă
phải tung ra 2 Sư Đoàn thiện chiến để ḥng nhân đà thắng lợi, đánh
tan Sư Đoàn 18 Bộ Binh, dưới sự chỉ huy của vị Tướng Trẻ Lê
Minh Đảo, nhưng không thắng nổi. Sau cùng Văn Tiến Dũng phải tung thêm
2 Sư Đoàn nữa vào mặt trận này, là 4 Sư Đoàn tất cả, lấy 4 đánh 1, trong
thế thuận lợi hoàn toàn về phương diện tinh thần quân sĩ đang lên.
Vậy mà Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH chỉ chịu rời bỏ trận tuyến khi có lệnh
của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 3 kiêm Vùng 3 Chiến Thuật. Vị Tướng
Tư Lệnh Quân Đoàn 3 không muốn trông thấy Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH anh dũng, kiên cường
bị tiêu diệt trước thế trận bất quân b́nh, địch đông gấp 4
và có thể tăng gấp 5, gấp 6 nếu cần, vũ khí đạn được, xe
tăng, pháo binh được cộng sản quốc tế đổ vào như mưa băo,
quyết đánh chiếm Sài G̣n như đă định.
Tướng Homer Smith, Tùy Viên
Quốc Pḥng Mỹ tại sài G̣n, ngày 13 đă gửi cho Tướng George S. Brown, Tham Mưu
Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ ca ngợi ư chí và tinh thần chiến đấu
dũng cảm tuyệt vời của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa dù những bất
lợi đang đè nặng trên vai họ. Sau 5 ngày theo dơi cuộc chiến An Lộc, Tướng
Smith đă nói: “Sự chiến đấu anh hùng và dũng cảm của quân đội
Nam Việt Nam... kể cả Địa Phương Quân Tỉnh Long Khánh, đă cho người
ta thấy rơ tinh thần và khả năng chiến đấu của những người
lính này giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều...” Đó là
chưa nói đến các chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại chiến trường
Xuân Lộc.
Trong lúc đó tại Quân Khu 4, ở miền Tây, Tướng Tư Lệnh
Nguyễn Khoa Nam, một Tướng giỏi, với Tướng Tư Lệnh Phó Lê Văn
Hưng, người hùng tử thủ An Lộc mấy năm trước, có trong tay 3 Sư
Đoàn Bộ Binh thiện chiến và các lực lượng Biệt Động Quân, Thiết Giáp,
Pháo Binh, Địa Phương yểm trợ chiến đấu
hùng hậu, tinh thần
rất cao, sẵn sàng chờ địch tiến đánh Quân khu này.
Khi Tổng Thống...
cà chớn Dương Văn Minh, với tư cách Tổng Tư Lệnh lúc đó, bị chỉ
huy trực tiếp bởi Sư Phụ Thích Trí Quang và ngay cả từ Hà Nội qua trung gian
của người em ruột Dương Văn Minh, Sĩ quan cao cấp cộng sản là
Dương Văn Nhựt (đă liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi 1956)
hạ lệnh cho Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa buông súng đầu hàng cộng sản vô
điều kiện (để bàn giao cho cộng sản, hi vọng kiếm cho bản thân và
bè lũ, chỗ đứng chỗ ngồi mà cộng sản sẽ dành cho trong chính quyền
“Cách Mạng giải phóng”, th́ Tướng Nguyễn Khoa Nam đă họp các Sĩ Quan
có trách nhiệm chỉ huy dưới quyền, và ra lệnh: anh em tùy nghi lo liệu về phần
ḿnh, trước t́nh thế chúng ta bị bắt buộc phải đầu hàng. Kế hoạch
chiến đấu để tự cứu ḿnh và bảo vệ vùng lănh thổ trách nhiệm
của chúng ta đă không thi hành được như anh em đă có thể biết...
Sau đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam, trong bộ quần áo tác chiến, mũ sắt 2 lớp
(sẵn sàng chiến đấu) đă vào Văn Pḥng Tư Lệnh, ngồi xuống ghế
của ḿnh, nh́n lại lần cuối tấm bản đồ Tổ Quốc trên tường,
nh́n lá cờ nhỏ nền đỏ với 2 ngôi sao trắng, tượng trưng cho uy quyền
của một Tướng Lănh chỉ huy, để trên bàn rồi rút súng bắn vào đầu
tự sát. Chắc chắn là trước khi bóp c̣ cho viên đạn xuyên qua đầu,
vị Tướng đáng kính phục này đă nói những ǵ với Tổ Quốc, với
đồng bào, với chiến hữu của ông.
Tướng Lê Văn Hưng, Tư
Lệnh Phó Quân Đoàn, anh hùng tử thủ An Lộc mấy năm trước, trở về
căn cứ chỉ huy phụ, nói với người vợ thân yêu “Em ở lại nuôi
con, anh phải ra đi v́ thân làm Tướng không thể sống nhục như thế này...”
Người vợ thân yêu nói với ông “Anh Hưng! Cho em chết theo với! Tất cả
chúng ta và các con cùng chết với nhau!” th́ Tướng Hưng đă thuyết phục
người vợ: Không được! Cha Mẹ không có quyền giết con. Em phải sống
để nuôi dậy con nên người để trả thù nhà và cùng với thế hệ
mai sau lấy lại Đất Nước này! Em phải sống dù phải chấp nhận
hi sinh, khó khăn, gian khổ. Người vợ thương yêu và can trường của
vị Tướng anh hùng này nói trong nước mắt: Em nghe lời ḿnh với hai điều
kiện: Nếu cộng sản bắt em phải xa ĺa các con hay chúng làm nhục em th́ em có quyền
tự sát! Tướng Hưng bằng ḷng, nắm lấy tay vợ rồi chào từ biệt
vợ con cùng một vài Sĩ Quan, Binh Sĩ đă có mặt từ trước tại đây
để dự định liên lạc với các đơn vị thi hành kế hoạch chiến
đấu cứu ḿnh, cứu Quân Khu 4, của hai Tướng Nam và Hưng, rồi vào pḥng
riêng, gạt đi lời yêu cầu của người vợ xin được chứng
kiến tận mắt sự ra đi của chồng. Tướng Hưng đóng cửa lại,
và 1 phát súng nổ... Tướng Lê Văn Hưng đă ra đi vĩnh viễn cùng với
Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam, để lại cho Lịch Sử dân tộc Việt
Nam những tấm gương bất khuất sáng ngời, như những tấm gương
bất khuất của Cha Ông ngày trước, của những thời đại Lư Thường
Kiệt phá quân ngoại xâm Nhà Tống, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại
phá quân Mông Cổ v.v... Hai Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng đă cùng một số
Tướng Lănh khác như Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ và nhiều Sĩ
Quan cao cấp khác của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa đă chết theo vận nước.
Các Ông không muốn bị bắt làm tù binh hay đầu hàng giặc để lại ô danh
cho hậu thế. Các ông cũng không muốn bỏ quân mà chạy lấy thân để
rồi ra nước ngoài, mang theo tiền bạc ăn cắp của Quân Đội, của Quốc
Gia, làm giầu bất chính trên xương máu của chiến sĩ như một số Tướng
Lănh hèn hạ khác. Quân đội của quốc gia nào có những Tướng Lănh anh hùng
và can đảm như thế hay không?
Một số Sĩ Quan cao cấp của Hoa Kỳ
từng tham chiến tại Việt Nam, không muốn dư luận cũng coi ḿnh như những
kẻ khác không biết ǵ về cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến kỳ lạ
này, về sau đă phải lên tiếng nói ra sự thật là: Quân Đội Việt Nam Cộng
Ḥa, nói chung, đă chiến đấu rất anh dũng và kiên cường, mặc dầu họ
luôn luôn phải chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, không được
chiến đấu trong những điều kiện đầy đủ, dễ dàng như
quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam. Đúng như thế.
* Quân Đội Hoa Kỳ chỉ
chiến đấu khi nắm chắc được yếu tố “Vượt trội
về hỏa lực - Superiority of Firepower”. Quân đội VNCH phải chiến đấu
trong mọi trường hợp cần thiết.
* Quân đội Hoa Kỳ chỉ chiến
đấu tại Việt Nam trong thời gian ngắn hạn rồi thay nhau về xứ.
Như thế không bị dồn vào thế mệt mỏi căng thẳng quá độ, thường
trực về thể chất cũng như tinh thần. C̣n Quân dội VNCH th́ ngược
lại, phải chiến đấu liên tục, không ngưng nghỉ. Sức chịu đựng
của người chiến binh VNCH nó khủng khiếp đến thế nào?
* Trong khi
chiến đấu cũng như lúc đóng quân trong đồn lũy, người chiến
binh Hoa Kỳ luôn luôn được bảo vệ bằng những phương tiện chiến
tranh dồi dào, tối tân, hiện đại nhất, cả về tấn công, pḥng thủ
cũng như yểm trợ. Người chiến binh VNCH làm sao có được như vậy!
Cái mạng sống của người chiến binh Việt Nam nó cũng mỏng manh.
*
Điểm nữa, ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần, thể chất,
tâm lư của người chiến binh Việt Nam là: trong khi ḿnh xả thân chiến đấu
bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống của chính ḿnh th́ lúc đó
gia đ́nh, những người thân yêu phải sống ra sao? Liệu có đang kẹt trong
vùng lửa đạn, chết chóc hay không? Về điểm này, người chiến binh
Hoa Kỳ khỏe hơn là cái chắc, tinh thần ổn định, thoải mái hơn rơ
ràng.
Bây giờ, nếu đặt người chiến binh của các cường quốc
Âu-Mỹ vào vị trí, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn, thiếu thốn, khắc
nghiệt của người chiến binh Việt Nam Cộng Ḥa, thử hỏi liệu những
người chiến binh ấy có thể chiến đấu được như người
chiến binh Việt Nam Cộng Ḥa hay không? Chịu được bao lâu? Chính Phủ, Quốc
Hội và Nhân Dân các quốc gia đó chịu được mấy tháng, mấy năm?
Câu
trả lời xin dành cho những nhà viết sử chân chính, cho những Sĩ Quan và Quân Nhân
Hoa Kỳ từng chiến đấu anh dũng, can trường bên cạnh những người
bạn chiến binh Việt Nam Cộng Ḥa của họ từ các chiến trường Khe
Sanh, Đác-Tô, Pleiku, Kontum, Đồng Xoài, B́nh Giả, Củ Chi, cho đến các chiến trường
vùng đồng bằng sông Cửu Long, điểm tận cùng của Đất Nước Việt
Nam...